Không còn nhớ ai
là người đầu tiên dịch “Gone with the wind” thành “Cuốn theo chiều gió” nhưng vị
nào dịch câu này hẳn nhiên là bậc thượng thừa về ngôn ngữ nói chung và rất giỏi
tiếng Việt nói riêng.
Ông Huỳnh Phan
Anh cũng khắc tên mình vào bảng mạ vàng khi dịch “For whom the bell tolls”
thành “Chuông nguyện hồn ai” (phải là “nguyện”, chứ không phải “gọi” – như các
bản dịch sau 1975, nghe mới “đã” và mới đúng với ý như câu chuyện của tác phẩm
Hemingway) (*). Cụ Bùi Giáng cũng thuộc vào nhóm người “giáng thế” khi dịch
“Terre des Hommes” (Vùng đất của người) thành “Cõi người ta”.
Cụ Phạm Duy là một
bậc tài hoa xuất chúng nữa với các tác phẩm chuyển ngữ lời Việt. Ca khúc “The
house of the rising sun” đã được cụ chuyển thành “Chiều vàng dưới mái nhà
tranh”. So sánh từng câu từng từ trong các ca khúc chuyển ngữ của thiên tài Phạm
Duy, không thể nói gì hơn ngoài sự kính phục tột bậc. Trong Love Story, ca khúc
rất phổ biến Sài Gòn thập niên 1970 mà cụ Phạm chuyển ngữ, có những từ được diễn
đạt mà chỉ những bậc thượng thừa tiếng Việt mới thể hiện nổi, chẳng hạn “this
empty world” thành “cuộc đời vắng ngắt”; hoặc “wild imaginings” thành “mộng huyền
mênh mang”…
Có một điểm
chung giữa những bậc kỳ tài Phạm Duy, Bùi Giáng hoặc vô số văn sĩ, nhạc sĩ cùng
thời với họ, là: “Tôi yêu tiếng nước tôi!”. Chỉ những người thật sự yêu
quý tiếng nói của dân tộc mình mới biết cách làm đẹp ngôn ngữ. Họ nhảy múa với
ngôn ngữ. Họ thăng hoa với ngôn ngữ. Họ bay bổng với ngôn ngữ. Sự cuồng nhiệt
trong tình yêu ngôn ngữ của họ đã tạo ra một nền văn hóa trong đó tiếng Việt vượt
qua cả khái niệm ngôn ngữ như là ký hiệu giao tiếp thuần túy mà vươn lên đến
chóp đỉnh của một thứ trừu tượng hơn: linh hồn dân tộc. “Tôi yêu tiếng nước
tôi”. Tình yêu của họ với tiếng Việt đã làm đẹp tiếng mẹ đẻ, làm sang trọng
tiếng mẹ đẻ, và cuối cùng làm nên một nền văn hóa đẹp đẽ.
Chỉ những giai
đoạn tiếng Việt bay bổng thì nền văn hóa mới thăng hoa, hay là ngược lại, thật
khó có thể nói chính xác. Nhưng, có thể đoán chắc rằng một nền văn hóa xuống cấp
luôn đi đôi với việc ngôn ngữ và cách dùng ngôn ngữ xuống cấp. Nó bị dùng sai
là một chuyện. Nó bị xem thường mới là điều đáng nói. Khi tiếng Việt không còn
được tôn trọng, văn hóa và xã hội sẽ không còn được tôn trọng. Con người cũng
không còn được tôn trọng. “Tiếng Việt còn, nước ta còn”. Nhưng tiếng Việt bầy hầy,
như đang thấy trên báo chí hàng ngày, trong các ca khúc được hàng triệu người
nghe, thì “nước ta” còn gì?
Đừng trông chờ ở
những khẩu hiệu “giữ gìn tiếng Việt” hay “làm trong sáng tiếng Việt” hô
hào chiếu lệ trong nền giáo dục hiện tại. Tiếng Việt đang bị hỏng không chỉ bởi
các MC tung hứng bừa bãi với những câu chữ làm màu “cho sang”, như “điểm trang”
thay vì phải nói cho đúng là “trang điểm”; không chỉ bởi các phát thanh viên
truyền hình học nhau cách nói rập khuôn, hay các nhà báo viết bài không bao giờ
xem lại lỗi chính tả; không chỉ bởi những cách dùng sai như “cặp đôi” hay “fan
hâm mộ”; không chỉ bởi các từ ghép Hán-Việt vô nguyên tắc như “phượt thủ”… Nguồn
gốc khiến tiếng Việt hư chính là từ giáo dục. Không ngôn ngữ nào có thể bay bổng
trong một mô hình giáo dục giáo điều. Chẳng ai có thể sửa lại tiếng Việt với đà
tuột dốc của nền giáo dục hiện nay. Muốn
“làm trong sáng tiếng Việt”, hệ thống giáo dục phải tự làm trong sáng mình. Điều này sẽ chẳng bao giờ có, không bao giờ thành
hiện thực, khi mà giáo dục đang nằm dưới bàn chân của những “chủ trương” và “đường
lối”. Đừng mong chờ những thay đổi trong giáo dục. Sẽ chẳng có thay đổi tích cực
gì cả. Tiếng Việt sẽ tiếp tục bị hành hạ và văn hóa sẽ tiếp tục bị tra tấn.
Dường như không
ai có thể cứu tiếng Việt nhưng tiếng Việt có thể được cứu nếu mỗi người trong
chúng ta cùng quay lại với con đường “tôi
yêu tiếng nước tôi”. Tìm kiếm
và đọc lại những quyển sách của một thời làm nên sự kỳ vĩ một nền văn hóa, như
một cách thức tự giải độc khỏi những luồng khí đen đang bủa quanh, có thể được
xem là một cách thức. Nhiều giá trị hiện bị mất đi đang nằm trong những quyển
sách đó. Văn hóa sẽ đi lạc vĩnh viễn nếu chẳng có ai tìm. Con đường đi tìm văn
hóa đã mất có thể sẽ giúp tìm lại ánh hào quang của tiếng Việt, và cuối cùng, dẫn
đến việc nhìn lại sự cần thiết phải tôn trọng tiếng Việt.
Không người dân
nào có thể thay đổi được hệ thống giáo dục hiện tại. Họ không có quyền hạn để
làm điều đó. Tuy nhiên không ai có thể ngăn chặn sự chọn lựa để dung nạp một nền
văn hóa khác với “hệ văn hóa” tuyên truyền. Cũng không ai có thể ngăn chặn sự
chọn lựa đọc gì bên ngoài phạm vi những bài văn mẫu hay nên đọc gì trên những
trang mạng xã hội. Đó là sự chọn lựa cần thiết, và cấp bách, để “tôi yêu tiếng
nước tôi” có thể còn tồn tại và còn có cơ may truyền lại cho hậu sinh.
Theo
Facebook Mạnh Kim 02-12-2017
Tác giả đính chính ngày 8-9-2018: Bài viết này có một chi tiết sai, về cách dịch “For whom the bell tolls”, mà tôi nhầm lẫn viết rằng dịch giả Huỳnh Phan Anh đã dịch thành “Chuông nguyện hồn ai”. Thật ra bản dịch của ông Huỳnh Phan Anh in năm 1972 là “Chuông gọi hồn ai”. Chữ nghĩa là vô cùng, kiến thức cũng vô tận, trong khi trí nhớ thì có hạn. Nay có đôi lời nói lại cho rõ vì bài viết này mới đây lại được nhiều người tìm đọc và chia sẻ. Không thể để một cái sai lan truyền như vậy. Cảm phiền các anh chị ghi nhận đính chính này và xem đây như một lời xin lỗi. Cám ơn.
(chú thích của BTT-RNDMVN:Tựa đề “Chuông nguyện hồn ai”là bản dịch của hai dịch giả Nguyễn Vĩnh - Hồ Thể Tần, in năm 1963)