Cổ
nhân xưa đã nói: “Nhân vô thập toàn,” châm ngôn này phù hợp với cuộc sống con
người trong mọi thời đại, khi mà con người phải đối diện với những đan xen “tốt”
– “xấu”, “thiện” – “ác” trong từng giây phút sống! Điều này đòi hỏi con người
luôn có chọn lựa chính chắn, để từ đó con người có thể hoàn thành sứ mệnh “làm
người” đúng ý nghĩa của mình hoà hợp giữa “thể lý và tinh thần” trong xã hội
hay trong cộng đoàn dòng tu – đó là chiều kích trưởng thành của con người. Tuy
nhiên, khi thế giới đi vào kỷ nguyên của khoa học – kỹ thuật đỉnh điểm, thì con
người dường như bị cuốn hút vào vòng quay của cỗ máy thời gian cũng như tiện
nghi hưởng thụ, chủ nghĩa thực dụng cũng như thế giới tục hoá, giá trị tinh thần
hay hình ảnh “thánh thiêng” trong thế giới này không còn được đề cao.
Đứng
trước thực trạng chung của thế giới ngày nay, Giáo hội mời gọi những ai theo đuổi
ơn gọi tu trì cần phải nhận ra vai trò – vị thế – sứ mạng của mình để có thể bước
vào đời – dấn thân làm chứng cho tình yêu dâng hiến và phục vụ Tin Mừng hiệu quả.
Muốn trở thành một sứ giả của Tin Mừng thực sự, đòi hỏi người ấy phải trưởng
thành trong ơn gọi của mình, nghĩa là phải được huấn luyện về mọi góc cạnh của
cuộc sống không chỉ đào tạo kiến thức về triết học – thần học và khoa học, mà
còn phải được huấn luyện để trưởng thành về tâm sinh lý, tu đức, tâm linh, vì
những phẩm chất này thật cần thiết để người tu sĩ trở thành những con người
quân bình, vững vàng, tự do, và có thể đảm nhận những trách nhiệm mục vụ cần
thiết cho Giáo hội và xã hội. “Họ cần được giáo dục để biết yêu mến sự thật, để
biết trung thành, biết kính trọng mọi người, để có ý thức công bằng, để trung
thực trong lời nói, để chân thành cảm thông, để trở thành những con người nhất
quán, và đặc biệt là để có sự quân bình trong phán đoán và trong thái độ ứng xử.”
(PDV, số 43)
Thật vậy,
sự trưởng thành luôn mang tính năng động thúc giục những ai theo đuổi ơn gọi tu
trì hướng tới chân trời hoàn thiện. Nó không nhất thiết phát triển theo tuổi
tác, mà nó biểu lộ qua sự quân bình của từng cá nhân được huấn luyện theo từng
cấp độ, để có những khả năng hiểu biết và cảm ứng được sự phát triển trọn vẹn
trên bình diện cảm quan, cũng như trên bình diện tri thức. Để trở thành một người
tu sĩ đích thực, chúng ta nên đề cập đến:
1. Trưởng thành nhân bản:
Là khả
năng phán đoán khách quan về đời sống cá nhân, chấp nhận mình trong hoàn cảnh
thực tế, không ảo tưởng những gì vượt quá những nhu cầu theo bản năng, ý thức
và trù liệu hướng về tương lai với niềm hy vọng.
Hiểu
rõ chính mình là nền tảng để đánh giá trung thực về những chi phối về phẩm chất
“nội – ngoại” trong cuộc sống cá nhân: thể xác, tình cảm, tri thức, thiêng
liêng cũng như những kinh nghiệm sống trong đời. Bên cạnh đó, “biết mình” còn
là khả năng nhận biết những giới hạn, những khuyết điểm, cũng như những khả
năng, những ưu điểm – để từ đó nhận thức về mình là “ai”, “thế nào”, “làm gì”,
“ở đâu”… để trù liệu và xây dựng cho mình một cuộc sống quân bình giữa những yếu
tố tích cực và tiêu cực trong cuộc sống. Trưởng thành nhân bản hay “biết mình”
là một giả định thiết yếu cho sự hoà hợp tâm lý và sự phát triển nội tâm. Vậy
ai chưa “biết mình” thì chưa thật sự trưởng thành nhân bản.
2. Trưởng thành tình cảm:
Là biết
tự chủ, biết giữ sự quân bình giữa cảm xúc, lý trí và nội tâm, tức là không để
tình cảm bị chi phối điều khiển bởi cảm giác, nhưng bởi lý trí và ý chí hoà hợp
với cảm xúc và nội tâm thể hiện trong từng cá nhân.
Sự
quân bình tình cảm là khả năng đặt những biến cố, sự việc (chẳng hạn: tuyên khấn,
mất mát hay một tai hoạ trong cuộc đời…) trong sự cân đối hài hoà giữa cảm xúc
và lý trí. Nếu để cảm xúc chi phối khi rơi vào thất vọng (chẳng hạn như: thi
trượt, không được tuyên khấn, không được tiến chức…) người tu sĩ thường phản ứng
bằng thái độ không hài lòng như nóng nảy, giận dữ, xung đột, hay than thân
trách phận. Ngược lại, một người trưởng thành biết thừa nhận những thất bại, chấp
nhận trách nhiệm, thiếu sót, yếu kém của mình để phân định và tìm phương hướng
vượt qua hay sửa chữa lại những sai lạc, theo châm ngôn: “thất bại là mẹ thành
công.”
3. Trưởng thành xã hội:
Là khả
năng giữ sự quân bình trong tình cảm trong tương quan đời sống cộng đoàn, trong
tình liên đới với anh em và mọi người chung quanh bằng đời sống chia sẻ, giao
tiếp hài hoà giữa thái độ “lắng nghe và đón nhận.” Trưởng thành về chiều kích
xã hội của mỗi tu sĩ là khuynh hướng sống chung và hiệp thông với người khác bằng
thái độ chia sẻ, cảm thông với mọi người trong cuộc sống thách đố của từng cá
nhân với cuộc sống chung.
Sự trưởng
thành xã hội cần phải có cái nhìn tổng hợp – khúc chiết về cuộc sống, hài hoà
giữa cá nhân và tập thể để có thể dẫn vào đời tu qua một quá trình chuẩn bị
thiêng liêng cũng như nhân bản giúp thể hiện được một sự hiện diện trưởng thành
của những người tu sĩ, hầu tạo được những quan hệ đổi mới ngay bên trong cũng
như bên ngoài cộng đoàn mình. (TT. số 33,c)
4. Trưởng thành tâm
linh:
Là nét
nổi bật của đời sống tu trì, là hành vi cuốn hút con người lao mình về Thiên
Chúa, cố gắng hướng tầm mắt và cõi lòng về Thiên Chúa, đó chính là hành vi cao
cả và sung mãn nhất của tinh thần – hành vi này chỉ đạo toàn bộ mọi sinh hoạt rộng
lớn của người tu sĩ (x. CN. số 1). Một khi người tu sĩ trưởng thành trong chiều
sâu tâm linh, thì trong mỗi thái độ hay cử chỉ của họ khi đối diện với những biến
cố quan trọng cũng như trong những hoàn cảnh bình thường trong cuộc sống, họ biết
sống hết mình với bổn phận của người tu sĩ, còn sự thành công – thất bại tuỳ
thuộc vào Thiên Chúa trong niềm vui – hạnh phúc. (x. TH. số 65)
Sự trưởng
thành này được biến đổi nhờ ơn sủng của Chúa Thánh Thần, dưới ánh sáng của Tin
Mừng, làm cho người tu sĩ có khả năng sống đời sống cầu nguyện và nhiệm hiệp với
Thiên Chúa và giúp họ phát triển khả năng sống và hoạt động trong Giáo hội –
Gia đình dòng tu một cách năng động trong sự hiệp thông và tình liên đới.
Đời sống
tu trì trưởng thành không chỉ là nhờ việc huấn luyện – giáo dục dựa trên những
chiều kích: thể lý, luân lý, tri thức và tâm linh theo đường hướng của những
nhà huấn luyện, mà sự trưởng thành này còn đòi hỏi nơi từng tu sĩ trách nhiệm về
chính mình trong sự tự do đáp lại lời mời gọi của lương tâm bước theo Chúa, để
biện minh cho sự lựa chọn thực tiễn và đặt giá trị đời tu trong sâu thẳm lòng
mình, từ đó người tu sĩ có kinh nghiệm dồi dào về Thiên Chúa và giúp họ kiện
toàn một cách tiệm tiến những kinh nghiệm ấy trong đời sống cá nhân. (CN. 17)
Vì thế, để trở nên một người tu sĩ trưởng thành không phải chỉ vun đắp cho mình
những tri thức lý thuyết về triết - thần, tâm lý, tâm linh… mà là một lối sống
– thực hành trên những khía cạnh ấy, bằng việc phân định khả năng chấp nhận một
đời sống có thể giúp trưởng thành nhờ di sản thiêng liêng và nhờ những quy tắc
của hội dòng trong quá trình tiến triển của cá nhân trong cộng đoàn. (YT .44)
Cần hiểu
rõ tiến trình của sự trưởng thành không phải là một hình thức áp đặt từ bên
ngoài và đồng đều cho tất cả mọi tu sĩ, mà xuất phát “từ bên trong” của từng cá
nhân. Tiến trình này tập hợp tất cả mọi chiều kích (thể lý, tâm lý, tâm linh…)
và sức mạnh sinh động chung quanh sự chọn lựa tự do bước theo Chúa Kitô trong đời
tu theo đặc sủng riêng biệt của từng hội dòng. Người tu sĩ trưởng thành tiệm tiến
nhờ sự huấn luyện và nhờ kinh nghiệm sống đời tu của họ để có thể phân định giữa
lý tưởng mà mình khấn hứa với con người thực tế của mình.
Để người
tu sĩ trưởng thành trong ơn gọi của mình, mỗi gia đình dòng tu có trách nhiệm
huấn luyện theo từng cấp độ (tiền tập, tập viện, khấn tạm, khấn trọn), tạo mọi
điều kiện để người tu sĩ có đủ kiến thức và kinh nghiệm thực hiện đời sống theo
Chúa Kitô, và hướng tới tương lai, nghĩa là trở nên những người tu sĩ trưởng
thành để có thể làm chứng tá về cuộc sống trong Chúa Kitô, để phụng sự Giáo hội
và phục vụ thế giới, để trở nên những chứng nhân sống theo lựa chọn của những lời
khuyên Phúc Âm (Khiết Tịnh, Nghèo Khó và Vâng Phục) và sự đam mê đối với Thiên
Chúa và đối với tình huynh đệ vẹn toàn bằng chính cuộc sống của người tu sĩ như
một “sứ điệp sống” giữa anh chị em và tha nhân.
Lm. Antôn Nguyễn Tiến Hiền, MF.
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
TH: Tông Huấn Đời Sống
Thánh Hiến
YT: Những yếu tố cốt
yếu của Đời Tu