CHUẨN SINH 2024

BAN LÃNH ĐẠO RNDM Việt Nam 2024-2027

ĐỆ TỬ VIỆN 2024


PHẦN KẾT - CUỘC ĐỜI MẸ SÁNG LẬP DÒNG


Phần kết

Sáng sớm hôm sau, ngày 19 tháng 1, điện tín được gửi đi để thông báo cho các cộng đoàn, gia đình và những người bạn thân thiết của Mẹ Euphrasie. Mẹ Augustine lập tức viết một bức thư chung dài gửi cho tất cả các cộng đoàn, kể lại chi tiết về những ngày cuối cùng của Mẹ Tổng quyền đáng kính trên trần gian.

Nhớ lại lời nói nửa đùa nửa thật của Mẹ Euphrasie khi mẹ đến Sturry trong chuyến thăm cuối cùng, Mẹ Madeleine hỏi ý kiến các sơ về việc mai táng mẹ trong nhà nguyện. Mẹ nhận ra rằng đó cũng là mong ước thiết tha nhất của mọi người.

Mẹ nộp đơn lên chính quyền để xin phép. Các thủ tục, việc kiểm tra và chuẩn bị mất hơn một tuần, sau đó mẹ mới có thể hoàn tất việc chuẩn bị. Mẹ sợ rằng sự chậm trễ có thể vi phạm các quy định về sức khỏe và gây khó khăn cho toàn bộ sự vụ, hơi thất vọng, mẹ nhớ lại lời nhận xét của Mẹ Euphrasie, "Đừng chôn mẹ quá nhanh". Mỗi ngày mẹ lo lắng kiểm tra thi thể chưa tẩm liệm của Mẹ Euphrasie. Chưa có dấu hiệu phân hủy nào dù là nhỏ nhất --- thực ra sắc mặt mẹ thậm chí không có vẻ nhợt nhạt của người chết. Những người khác cũng nhận xét về sự tươi tắn của màu da của mẹ. Mẹ lạnh như đá nhưng thật khó hình dung rằng mẹ đã chết.

Trong khi chờ đợi giấy phép chính thức về việc chôn cất, một số phiến đá lớn từ sàn nhà nguyện được dỡ lên, và một cái huyệt được đào dưới sàn của cung thánh. Vào tối thứ sáu, 27 tháng giêng, thi thể của Mẹ Euphrasie được đặt trong một chiếc quan tài lót chì và được đưa đến nhà nguyện. Chiếc quan tài được phủ bằng tấm vải màu đen, bên trên người ta đặt scapular, chuỗi tràng hạt và tượng chịu nạn của mẹ.

Đến 9 giờ sáng hôm sau nhà nguyện đã chật ních người dự Thánh lễ An táng do Cha Ephrem cử hành. Gần chiếc quan tài có một số người bạn nhỏ tuổi nhất của Mẹ Euphrasie, một bên là các cô công nhân trong chiếc váy ngắn màu đen gọn gàng, và bên kia là các em mồ côi đến từ Deal, trong bộ quần áo thủy thủ màu xanh và trắng. Các sơ từ Deal và Sturry ngồi ở dãy ghế ca đoàn sát các bức tường của nhà nguyện. Ngôi nhà nguyện chật ních các khách gần xa, quý thân hữu, quý linh mục, quý sơ và bà con giáo dân.

Đến cuối Thánh lễ, khi những lời kinh cuối cùng của lễ an táng kết thúc, đội mai táng lặng lẽ tiến về phía trước. Quan tài của Mẹ Euphrasie được đưa đến gần huyệt ở cung thánh và trong thinh lặng được hạ cẩn thận vào hầm chờ.

 

Sau đó, một vị linh mục cao niên, lưng khòm và tóc bạc trắng, bước tới chia sẻ. Đó là Cha Coulomb, bạn cũ của Mẹ Euphrasie ở Armentieres. Ngài nói, ngài đến từ Pháp, đặc biệt là để tỏ lòng tri ân thay cho nhiều bạn bè của Mẹ Euphrasie ở Pháp, những người không thể có mặt, và đặc biệt là các công nhân nhà máy, những người vẫn nhớ mẹ và các chị em của mẹ đã giúp đỡ họ như thế nào trong nhiều năm trước đây với Hội Bảo trợ và Nhà trẻ.

Kể từ ngày ấy, Cha Coulomb bắt đầu thu thập thông tin và những mẩu chuyện để bổ sung vào kiến thức của riêng mình về cuộc đời của Mẹ Euphrasie. Năm 1899, ngài gửi cho Cha Philpin, lúc đó đang sống ở Luân Đôn, bản thảo tiểu sử do ngài viết, xin cha xác nhận và phê bình. Cuốn tiểu sử này, được xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1902, là 'tiểu sử' đầu tiên của Mẹ Euphrasie Barbier.

Khi ngài nói xong cái lỗ trên sàn được đóng lại bằng một phiến đá cẩm thạch trắng có dòng chữ bằng vàng được viết bằng tiếng Pháp:

Tại đây,

Mẹ Tổng quyền rất đáng kính Maria Thánh Tâm Chúa Giêsu Euphrasie Barbier

Đấng sáng lập Dòng Đức Bà Truyền Giáo,

yên nghỉ trong Chúa vào ngày 18.01.1893, hưởng thọ 64 tuổi. “Ký ức của mẹ là phúc lành” R.I.P.

Mẹ Mary of the Holy Rosary được gọi về một cách vội vã khi đang thăm viếng các sứ mạng tại Tân Tây Lan. Cùng đi với mẹ có các đại biểu Tổng Công Hội, một TCH phải được tổ chức càng sớm càng tốt.

Tại Tổng Công Hội này, Mẹ tân Tổng quyền đáng kính được bầu chọn vào ngày đầu tiên là Mẹ Mary of the Holy Rosary. Bản báo cáo của mẹ về tình trạng của hội dòng cho thấy tinh thần tu trì của các chị em rất tuyệt vời. Hiện tại có 205 sơ khấn, 50 sơ qua đời kể từ thời điểm thành lập. Có 13 nhà chăm sóc cho 10 trường nội trú, 6 trại trẻ mồ côi và hơn 3.000 học sinh.

Trong nhiệm kỳ của mình, Mẹ Mary of the Holy Rosary thành lập 20 tu viện mới, và hội dòng lan rộng sang Thụy Sỹ, Úc và Canada. Năm 1901, dưới làn sóng đàn áp tôn giáo mới, các nhà ở Pháp đóng cửa, nhà tập và Nhà Mẹ chuyển sang Deal. Sau đó, các nhà mới được thiết lập tại nước Anh, và Nhà Mẹ được chuyển đến Hastings. Năm 1966, Nha trung ương được chuyển đến Rôma.

 

Đến năm 1961, kỷ niệm 100 năm thành lập hội dòng, có hơn 1000 nữ tu Đức Bà Truyền giáo, 95 tu viện tại 9 tỉnh: Anh, Pháp, Tân Tây Lan (2), Úc, Canada, Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam.

Năm 1947, hội dòng bắt đầu tiến trình xin án phong chân phước cho Mẹ Euphrasie. Mộ của mẹ được khai quật, và thi thể của mẹ không bị rữa. Điều quan trọng hơn là nghiên cứu liên quan đến việc điều tra cần thiết về cuộc đời của mẹ làm sáng tỏ hơn sự phát triển của linh đạo của mẹ và giá trị thần học.

Sự đổi mới trong Giáo hội từ sau Công đồng Vaticanô, tạo ra nhiều thay đổi đối với các nữ tu Đức Bà Truyền Giáo. Rõ ràng nhất là sự thay đổi tu phục sao cho phù hợp với thời hiện đại và các nền văn hóa; điều quan trọng nhất là một cuộc đổi mới nội tâm, một cuộc tìm kiếm khẩn thiết đối với trọng tâm ơn gọi của Mẹ Euphrasie. Các nữ tu cố gắng khám phá ra cách Đấng sáng lập của họ sống, cầu nguyện, giảng dạy và hành động trong thế kỷ 20. Khi Giáo hội yêu cầu thần học và các giá trị thiêng liêng phải được đặt lên hàng đầu trong các bản văn Hiến pháp của các dòng tu, các nữ tu đã tìm về các văn bản gốc của Mẹ Euphrasie. Vào năm 1978, từ ‘Sứ Vụ Thần Linh’ đã được đưa vào trong Hiến pháp, hiện bản Hiến pháp đang được sửa đổi để lấy lại tinh thần nguyên thủy của hội dòng.

Chín tỉnh của Hội dòng đã đáp lại lời mời gọi đổi mới việc truyền giáo. Họ tập hợp các nguồn lực và ra đi đến các vùng nghèo khổ và khó khăn. Nhiều trường học lớn dần dần được chuyển giao cho các ban quản trị giáo dân, phần lớn là các học sinh cũ và đồng nghiệp của các sơ. Các việc truyền giáo mới của các sơ là những gì mà Mẹ Euphrasie có lẽ đã từng rất quen thuộc ở một thời điểm và địa điểm khác --- chăm sóc cho những người bị bỏ rơi, những người nghèo nhất trong dân Chúa, những người phải chịu cảnh nghèo đói, áp bức và đói khát tinh thần thuộc mọi hình thức.

Ngày nay các chị em của Mẹ Euphrasie làm việc ở nhiều quốc gia mà mẹ chưa từng biết --- Miến Điện, Việt Nam, Philippines, Kenya, Senegal, Peru, Chile, Bolivia, Canada, Romania, Đức, Tiệp Khắc, Papua-New Guinea --- và công cuộc ban đầu của mẹ- các cánh đồng truyền giáo tại Tân Tây Lan, Ấn Độ, Úc và các đảo Thái Bình Dương, và một số điểm mới hơn, chính họ đang gửi các nhà truyền giáo đến phần còn lại của thế giới.

Vậy Sứ mệnh của Mẹ Euphrasie đã thực sự đạt được những gì?

"Không, không, không, bạn không hiểu!" Mẹ Euphrasie sẽ phản đối nếu mẹ ở đây bây giờ.

“Không phải công việc của tôi! Đó chưa bao giờ là công việc của tôi --- luôn luôn là công việc của Chúa! Thiên Chúa luôn luôn là Đấng đi ra, vươn tới, chạm vào mọi người và đưa họ vào cuộc sống.

 

“Trong sự nghèo nàn và yếu đuối của chúng ta, chúng ta được mời gọi trở thành một phần của mầu nhiệm này; đó là lý do tại sao cuộc sống của chúng ta luôn phải hiệp thông và cầu nguyện. Điều quan trọng không phải chúng ta làm được gì, chúng ta có thể dạy học hay đào cống rãnh. Không ai khác nhìn thấy hoặc biết đến hoặc quan tâm. Điều quan trọng là khi chúng ta dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa.

 

“Thật tuyệt vời cho bạn nếu Thiên Chúa gọi mời bạn tham dự vào Sứ vụ của Người!”

Biên soạn bản tiếng Anh: Sr. Mary Philippa Reed - RNDM

Dịch thuật: Sr. Agata Phượng Linh - RNDM