Phần kết
Sáng sớm hôm sau, ngày 19 tháng 1, điện tín được gửi đi để
thông báo cho các cộng đoàn, gia đình và những người bạn thân thiết của Mẹ
Euphrasie. Mẹ Augustine lập tức viết một bức thư chung dài gửi cho tất cả các cộng
đoàn, kể lại chi tiết về những ngày cuối cùng của Mẹ Tổng quyền đáng kính trên
trần gian.
Nhớ lại lời nói nửa đùa nửa thật của Mẹ Euphrasie khi mẹ
đến Sturry trong chuyến thăm cuối cùng, Mẹ Madeleine hỏi ý kiến các sơ về việc
mai táng mẹ trong nhà nguyện. Mẹ nhận ra rằng đó cũng là mong ước thiết tha nhất
của mọi người.
Mẹ nộp đơn lên chính quyền để xin phép. Các thủ tục, việc
kiểm tra và chuẩn bị mất hơn một tuần, sau đó mẹ mới có thể hoàn tất việc chuẩn
bị. Mẹ sợ rằng sự chậm trễ có thể vi phạm các quy định về sức khỏe và gây khó
khăn cho toàn bộ sự vụ, hơi thất vọng, mẹ nhớ lại lời nhận xét của Mẹ
Euphrasie, "Đừng chôn mẹ quá nhanh". Mỗi ngày mẹ lo lắng kiểm tra thi
thể chưa tẩm liệm của Mẹ Euphrasie. Chưa có dấu hiệu phân hủy nào dù là nhỏ nhất
--- thực ra sắc mặt mẹ thậm chí không có vẻ nhợt nhạt của người chết. Những người
khác cũng nhận xét về sự tươi tắn của màu da của mẹ. Mẹ lạnh như đá nhưng thật
khó hình dung rằng mẹ đã chết.
Trong khi chờ đợi giấy phép chính thức về việc chôn cất,
một số phiến đá lớn từ sàn nhà nguyện được dỡ lên, và một cái huyệt được đào dưới
sàn của cung thánh. Vào tối thứ sáu, 27 tháng giêng, thi thể của Mẹ Euphrasie
được đặt trong một chiếc quan tài lót chì và được đưa đến nhà nguyện. Chiếc
quan tài được phủ bằng tấm vải màu đen, bên trên người ta đặt scapular, chuỗi
tràng hạt và tượng chịu nạn của mẹ.
Đến 9 giờ sáng hôm sau nhà nguyện đã chật ních người dự
Thánh lễ An táng do Cha Ephrem cử hành. Gần chiếc quan tài có một số người bạn
nhỏ tuổi nhất của Mẹ Euphrasie, một bên là các cô công nhân trong chiếc váy ngắn
màu đen gọn gàng, và bên kia là các em mồ côi đến từ Deal, trong bộ quần áo thủy
thủ màu xanh và trắng. Các sơ từ Deal và Sturry ngồi ở dãy ghế ca đoàn sát các
bức tường của nhà nguyện. Ngôi nhà nguyện chật ních các khách gần xa, quý thân
hữu, quý linh mục, quý sơ và bà con giáo dân.
Đến cuối Thánh lễ, khi những lời kinh cuối cùng của lễ an
táng kết thúc, đội mai táng lặng lẽ tiến về phía trước. Quan tài của Mẹ
Euphrasie được đưa đến gần huyệt ở cung thánh và trong thinh lặng được hạ cẩn
thận vào hầm chờ.
Sau đó, một vị linh mục cao niên, lưng khòm và tóc bạc trắng,
bước tới chia sẻ. Đó là Cha Coulomb, bạn cũ của Mẹ Euphrasie ở Armentieres.
Ngài nói, ngài đến từ Pháp, đặc biệt là để tỏ lòng tri ân thay cho nhiều bạn bè
của Mẹ Euphrasie ở Pháp, những người không thể có mặt, và đặc biệt là các công
nhân nhà máy, những người vẫn nhớ mẹ và các chị em của mẹ đã giúp đỡ họ như thế
nào trong nhiều năm trước đây với Hội Bảo trợ và Nhà trẻ.
Kể từ ngày ấy, Cha Coulomb bắt đầu thu thập thông tin và
những mẩu chuyện để bổ sung vào kiến thức của riêng mình về cuộc đời của Mẹ
Euphrasie. Năm 1899, ngài gửi cho Cha Philpin, lúc đó đang sống ở Luân Đôn, bản
thảo tiểu sử do ngài viết, xin cha xác nhận và phê bình. Cuốn tiểu sử này, được
xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1902, là 'tiểu sử' đầu tiên của Mẹ Euphrasie
Barbier.
Khi ngài nói xong cái lỗ trên sàn được đóng lại bằng một
phiến đá cẩm thạch trắng có dòng chữ bằng vàng được viết bằng tiếng Pháp:
Tại đây,
Mẹ Tổng quyền rất đáng kính Maria Thánh Tâm Chúa Giêsu Euphrasie
Barbier
Đấng sáng lập Dòng Đức Bà Truyền Giáo,
yên nghỉ trong Chúa vào ngày 18.01.1893, hưởng thọ 64 tuổi.
“Ký ức của mẹ là phúc lành” R.I.P.
Mẹ Mary of the Holy Rosary được gọi về một cách vội vã
khi đang thăm viếng các sứ mạng tại Tân Tây Lan. Cùng đi với mẹ có các đại biểu
Tổng Công Hội, một TCH phải được tổ chức càng sớm càng tốt.
Tại Tổng Công Hội này, Mẹ tân Tổng quyền đáng kính được bầu
chọn vào ngày đầu tiên là Mẹ Mary of the Holy Rosary. Bản báo cáo của mẹ về
tình trạng của hội dòng cho thấy tinh thần tu trì của các chị em rất tuyệt vời.
Hiện tại có 205 sơ khấn, 50 sơ qua đời kể từ thời điểm thành lập. Có 13 nhà
chăm sóc cho 10 trường nội trú, 6 trại trẻ mồ côi và hơn 3.000 học sinh.
Trong nhiệm kỳ của mình, Mẹ Mary of the Holy Rosary thành
lập 20 tu viện mới, và hội dòng lan rộng sang Thụy Sỹ, Úc và Canada. Năm 1901,
dưới làn sóng đàn áp tôn giáo mới, các nhà ở Pháp đóng cửa, nhà tập và Nhà Mẹ
chuyển sang Deal. Sau đó, các nhà mới được thiết lập tại nước Anh, và Nhà Mẹ được
chuyển đến Hastings. Năm 1966, Nha trung ương được chuyển đến Rôma.
Đến năm 1961, kỷ niệm 100 năm thành lập hội dòng, có hơn
1000 nữ tu Đức Bà Truyền giáo, 95 tu viện tại 9 tỉnh: Anh, Pháp, Tân Tây Lan
(2), Úc, Canada, Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam.
Năm 1947, hội dòng bắt đầu tiến trình xin án phong chân
phước cho Mẹ Euphrasie. Mộ của mẹ được khai quật, và thi thể của mẹ không bị rữa.
Điều quan trọng hơn là nghiên cứu liên quan đến việc điều tra cần thiết về cuộc
đời của mẹ làm sáng tỏ hơn sự phát triển của linh đạo của mẹ và giá trị thần học.
Sự đổi mới trong Giáo hội từ sau Công đồng Vaticanô, tạo
ra nhiều thay đổi đối với các nữ tu Đức Bà Truyền Giáo. Rõ ràng nhất là sự thay
đổi tu phục sao cho phù hợp với thời hiện đại và các nền văn hóa; điều quan trọng
nhất là một cuộc đổi mới nội tâm, một cuộc tìm kiếm khẩn thiết đối với trọng
tâm ơn gọi của Mẹ Euphrasie. Các nữ tu cố gắng khám phá ra cách Đấng sáng lập của
họ sống, cầu nguyện, giảng dạy và hành động trong thế kỷ 20. Khi Giáo hội yêu cầu
thần học và các giá trị thiêng liêng phải được đặt lên hàng đầu trong các bản
văn Hiến pháp của các dòng tu, các nữ tu đã tìm về các văn bản gốc của Mẹ
Euphrasie. Vào năm 1978, từ ‘Sứ Vụ Thần Linh’ đã được đưa vào trong Hiến pháp,
hiện bản Hiến pháp đang được sửa đổi để lấy lại tinh thần nguyên thủy của hội
dòng.
Chín tỉnh của Hội dòng đã đáp lại lời mời gọi đổi mới việc
truyền giáo. Họ tập hợp các nguồn lực và ra đi đến các vùng nghèo khổ và khó
khăn. Nhiều trường học lớn dần dần được chuyển giao cho các ban quản trị giáo
dân, phần lớn là các học sinh cũ và đồng nghiệp của các sơ. Các việc truyền
giáo mới của các sơ là những gì mà Mẹ Euphrasie có lẽ đã từng rất quen thuộc ở
một thời điểm và địa điểm khác --- chăm sóc cho những người bị bỏ rơi, những
người nghèo nhất trong dân Chúa, những người phải chịu cảnh nghèo đói, áp bức
và đói khát tinh thần thuộc mọi hình thức.
Ngày nay các chị em của Mẹ Euphrasie làm việc ở nhiều quốc
gia mà mẹ chưa từng biết --- Miến Điện, Việt Nam, Philippines, Kenya, Senegal,
Peru, Chile, Bolivia, Canada, Romania, Đức, Tiệp Khắc, Papua-New Guinea --- và
công cuộc ban đầu của mẹ- các cánh đồng truyền giáo tại Tân Tây Lan, Ấn Độ, Úc
và các đảo Thái Bình Dương, và một số điểm mới hơn, chính họ đang gửi các nhà
truyền giáo đến phần còn lại của thế giới.
Vậy Sứ mệnh của Mẹ Euphrasie đã thực sự đạt được những
gì?
"Không, không, không, bạn không hiểu!" Mẹ
Euphrasie sẽ phản đối nếu mẹ ở đây bây giờ.
“Không phải công việc của tôi! Đó chưa bao giờ là công việc
của tôi --- luôn luôn là công việc của Chúa! Thiên Chúa luôn luôn là Đấng đi
ra, vươn tới, chạm vào mọi người và đưa họ vào cuộc sống.
“Trong sự nghèo nàn và yếu đuối của chúng ta, chúng ta được
mời gọi trở thành một phần của mầu nhiệm này; đó là lý do tại sao cuộc sống của
chúng ta luôn phải hiệp thông và cầu nguyện. Điều quan trọng không phải chúng
ta làm được gì, chúng ta có thể dạy học hay đào cống rãnh. Không ai khác nhìn
thấy hoặc biết đến hoặc quan tâm. Điều quan trọng là khi chúng ta dâng mình
hoàn toàn cho Thiên Chúa.
“Thật tuyệt vời cho bạn nếu Thiên Chúa gọi mời bạn tham dự
vào Sứ vụ của Người!”
Biên
soạn bản tiếng Anh: Sr. Mary Philippa Reed - RNDM
Dịch
thuật: Sr. Agata Phượng Linh - RNDM