Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu
trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết
lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc
quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.
Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà
Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ,
nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để
cháy sáng.
Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên
Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong
vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước
được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là
dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu
toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi
chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.
Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong
việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức
tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần
đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để
luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi
những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.
Có lẽ trong chúng ta, không ai trải qua cuộc sống này mà không một lần
chờ đợi. Người ta vẫn thường nói rằng “chờ đợi là hạnh phúc”. Nhưng cũng có người
bảo chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Một ngày sống có rất nhiều lần chúng ta phải
chờ đợi: chờ đợi một ai đó, chờ đợi một chuyến đi, chờ đợi một sự kiện.
Nếu ta để tâm quan sát xung quanh ta sẽ thấy mọi người, mọi vật đều có
những khoảnh khắc chờ đợi: những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua; những
người đi lại chờ đèn để băng qua đường; những điểm xe buýt lác đác vài người đợi chuyến xe kế tiếp. Chờ đợi có thể sẽ rất
buồn và rất lâu, nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta
đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ta cứ phải chờ, cứ phải đợi, chờ rất nhiều,
đợi cũng rất lâu đơn giản vì ta không thể nào làm khác được.
Và để không bỏ lỡ điều ta đã cất công chờ đợi, để không tuột khỏi tầm
tay điều mình mong ngóng, thì thái độ không thể thiếu nơi mỗi người là sự tỉnh
thức.
Đối với người kitô hữu, mỗi ngày sống trên trần gian là một ngày chờ đợi
để gặp Chúa. Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương này, Thiên Chúa luôn kêu gọi
con người hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Chúa đến cách bất ngờ. Trong dụ ngôn mười
cô trinh nữ này, Nước Thiên Chúa được ví như bữa tiệc cưới. Chúa Giêsu chính là
chàng rể, các trinh nữ là mỗi người trong chúng ta, là toàn thể nhân loại này.
Giờ Chúa đến là giờ ta giã từ cõi đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời.
Chàng rể đến muộn nói lên sự bất ngờ của giờ chết.
Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài mong cho con người được hạnh phúc,
muốn cho hết thảy mọi người được cứu độ, và đó là ý của Ngài, như lời Chúa
Giêsu đã nói:“Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin
vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau
hết.” (Ga 6,40). Bởi thế, mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn đi đón chàng rể,
cả mười cô dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô
đều được tham dự tiệc cưới.
Việc Chúa đến tận nơi tìm ta, cho thấy con người được Chúa trân trọng,
Chúa không ra lệnh hay triệu tập ta đến như một người lãnh đạo. Nhưng Chúa đích
thân đến đón rước linh hồn ta, Chúa yêu thương ta biết bao!
Thế nhưng điều kiện để được vào dự tiệc cưới là phải có đèn sáng. Đèn
ai không sáng sẽ bị loại ra ngoài.
Một ngọn đèn dầu cháy sáng được là nhờ sự liên tục cung cấp những giọt
dầu, nếu những giọt dầu hết, thì đèn sẽ tắt. Dầu trong đèn của chúng ta không
phải những gì quá lớn lao, đến nỗi ta không thể tích luỹ được, mà đó là: lòng
tin, cậy, mến và những điều căn bản cần có trong cuộc sống hàng ngày nơi mỗi
người: sự hy sinh, yêu thương nâng đỡ nhau,
những suy nghĩ tốt về người khác... Đó còn là những giọt dầu tình yêu
thương giữ cho đời sống đạo đức của chúng ta cháy sáng giống một ngọn lửa sống
động. Những người đèn sáng là những người yêu mến Chúa thiết tha nên chăm lo thực
hành Lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể.
Còn những người đèn tắt, cũng muốn vào dự tiệc cưới, nhưng không chịu
chuẩn bị. Họ tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, là kitô hữu nhưng đời sống
hoàn toàn như người không có đức tin. Họ sống buông thả theo những đam mê, dục
vọng. Dù biết là rồi một ngày không xa họ sẽ rời bỏ thế giới trần tục này,
nhưng họ vẫn tìm lợi danh bằng mọi giá, những mưu mô, tính toán cho riêng mình.
Đó là những người có đèn mà không có dầu; có đèn mà đèn không sáng; có đạo mà
không giữ đạo; biết luật Chúa nhưng không thực hành. Chúa Giêsu đã trích dẫn sự
kiện trong Kinh Thánh biến cố Đại Hồng Thủy để mời gọi mọi người hãy học bài học
lịch sử đó như một kinh nghiệm sống để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ
nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân. Lúc tận cùng ấy huyền
nhiệm và khó hiểu được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai
người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất
ngờ như người chủ đi xa trở về vào lúc những người giúp việc không ngờ.
Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa
trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với
thánh ý Chúa.
Lm. Anmai CSsR