“KHÔNG CÓ CHÚA GIÊSU CHÚNG TA KHÔNG LÀM ĐƯỢC GÌ”
20 câu trả lời của Đức Thánh Cha
Phanxicô về việc truyền giáo được trích từ “Cuộc phỏng vấn của Gianni Valente với
Đức Thánh Cha”, Hãng Thông tấn Fides thực hiện.
Nhân cuối Tháng Truyền Giáo Ngoại
Thường năm ngoái, Hãng Thông tấn Fides trích dẫn một số đoạn trong cuốn sách
dài ghi lại cuộc phỏng vấn của Gianni Valente thuộc Hãng tin Fides với Đức
Thánh Cha Phanxicô, trong đó Đức Thánh Cha nhấn mạnh, “Giáo Hội truyền giáo hoặc không phải là Giáo Hội”. Cuốn sách này
đã được Thư viện điện tử Vatican và nhà xuất bản Thánh Phaolô phát hành; đã có
mặt trong các nhà sách kể từ ngày 5 tháng 11, 2019.
“Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn
và cuộc đời của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu”. Đó là lời mở đầu cho Tông
huấn Niềm Vui Tin Mừng của Đức Thánh Cha, công bố tháng 11 năm 2013, tám tháng
sau mật nghị bầu giáo hoàng mà ngài được chọn làm Giám mục Rôma, kế vị thánh
Phêrô. Bản văn phác thảo chương trình triều đại giáo hoàng của ngài đã mời gọi
tất cả mọi người tái dung hoà mỗi hành động, suy tư và sáng kiến mang chiều
kích Giáo Hội với “việc loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay”. Sáu năm sau,
Đức Thánh Cha tổ chức Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường vào tháng 10 năm 2019, đồng
thời, triệu tập Nghị Trình Đặc Biệt của Thượng Hội Đồng Giám Mục Tại Rôma liên
quan đến Vùng Amazon với ý hướng tìm ra những đường lối mới cho việc loan báo
Tin Mừng tại vùng “lá phổi xanh” vốn đang bức tử bởi sự khai thác cùng kiệt bạo
hành và gây thương tổn cho bao “anh chị em và chị trái đất của chúng ta”.
Trong thời gian này, Đức Thánh Cha cũng
đã đề cập đến những mối bận tâm khẩn thiết liên quan đến bản chất đặc thù sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội trong thế giới ở
các huấn từ công khai của ngài. Chẳng hạn, ngài đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần
rằng, loan báo Tin Mừng không phải là “cải
đạo người khác” nhưng Giáo Hội phát triển nhờ “sự cuốn hút” bởi “chứng tá”,
đó là một chuỗi cách thức diễn tả hướng đến đề nghị của ngài là làm sao liên kết
động lực của từng việc tông đồ với cội nguồn của nó.
Đức Thánh Cha nói đến tất cả những điều
này, và nhiều hơn nữa, trong cuộc phỏng vấn được viết thành sách, cuốn sách dài
có tựa đề “Không có Ngài, chúng ta không làm được gì”: Một Cuộc Đối Thoại Về Việc
Trở Nên Những Nhà Truyền Giáo Trong Thế Giới Hôm Nay.
DƯỚI
ĐÂY LÀ 20 CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI ĐƯỢC TRÍCH ĐOẠN
1. Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha nói, hồi trẻ, Đức Thánh Cha muốn đi
truyền giáo Nhật. Vậy chúng con có thể nói, Đức Thánh Cha chưa bao giờ trở
thành nhà truyền giáo?
Tôi không biết, tôi vào Dòng Tên vì
được đánh động bởi ơn gọi truyền giáo của họ, đánh động bởi việc họ luôn luôn đi
đến những vùng biên giới. Lúc đó tôi không thể đến Nhật, nhưng tôi luôn cảm thấy
rằng, để loan báo Chúa Giêsu và Tin Mừng
của Ngài, thì nhất định phải đi ra,
và tiến về phía trước.
2. Đức Thánh Cha không ngừng nhắc đến “Một Giáo Hội lên đường”. Nhiều người
đã mượn cách diễn tả này và đôi khi, xem ra, nó trở thành một khẩu hiệu gây nhàm
chán, ngày càng được nhiều người nại đến để trách cứ Giáo Hội về cái mà Giáo Hội
nên và không nên.
“Một Giáo Hội lên đường” không phải
là cách nói mang tính thời thượng do tôi phát minh; nó là lệnh truyền của Chúa
Giêsu, Đấng trong Tin Mừng Marcô, đã kêu gọi những ai theo Ngài tiến vào giữa lòng
thế giới và loan báo Tin Mừng “cho mọi loài thọ tạo”. Giáo Hội hoặc là lên đường hoặc không còn là Giáo Hội; Giáo Hội hoặc là truyền giáo hoặc không còn
là Giáo Hội. Nếu không lên đường, Giáo
Hội sẽ mục ruỗng và trở thành một thứ gì đó.
3. Giáo Hội sẽ là gì nếu không loan báo Tin Mừng và không lên đường?
Giáo
Hội sẽ trở thành một hiệp đoàn tâm linh, một tổ chức đa quốc gia nhằm đưa ra những
phát kiến và những thông điệp mang tính đạo đức và tôn giáo.
Điều này chẳng có gì sai, nhưng đó không phải là Giáo Hội. Đây là một nguy cơ đối với bất cứ một cơ cấu
tĩnh nào trong Giáo Hội. Rốt cuộc, chúng ta sẽ chế ngự Chúa Kitô; các bạn sẽ
chẳng còn là chứng tá cho những gì Ngài làm, nhưng thay vào đó là nói thao thao
bất tuyệt thay cho một ý tưởng nào đó của Chúa Kitô; một ý tưởng mà các bạn đã
cải biến và thuần hoá cho phù hợp với mình. Các bạn tổ chức điều này, điều kia,
các bạn trở thành những nhà quản lý hẹp hòi của đời sống Giáo Hội, nơi mà mọi
việc phải xảy ra theo một kế hoạch đã lập sẵn, mọi thứ phải tuân theo các chỉ
thị; thế nhưng, ở đó, không bao giờ xảy
ra cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, một cuộc gặp gỡ vốn đã chạm đến cõi lòng các bạn từ
thuở ban đầu.
4. Thưa Đức Thánh Cha, việc truyền giáo tự nó có phải là một liều thuốc giải
cho mọi vấn đề không? Liệu ước muốn và nỗ lực “ra đi” truyền giáo có đủ để
tránh khỏi những sự méo mó này?
Truyền giáo, “Giáo Hội lên đường”,
không phải là một chương trình, một ý hướng được thực hiện duy bởi sức mạnh của
ý chí nhưng chính Chúa Kitô là Đấng làm
cho Giáo Hội ra khỏi chính mình. Trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, các bạn lên đường vì lẽ Chúa Thánh Thần đang
đẩy và đang mang các bạn đi. Và khi đến nơi, các bạn nhận ra rằng, Ngài đã ở đó trước rồi, Ngài đang chờ đợi các bạn. Thần Khí Chúa đã đến trước, Ngài đã dọn sẵn lối cho các bạn và Ngài đang
sẵn sàng hoạt động.
5. Trong cuộc gặp gỡ Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, Đức Thánh Cha đã đề nghị
các thành viên đọc Công Vụ Tông đồ như một bản văn thường xuyên được dùng để cầu
nguyện; thưa Đức Thánh Cha, tại sao lại là một trình thuật thời kỳ đầu của Giáo
Hội mà không phải là một thủ bản chiến lược truyền giáo “hiện đại”?
Nhân
vật chính trong Công Vụ Tông Đồ không phải là các tông đồ mà là Chúa Thánh Thần.
Các tông đồ là những người đầu tiên nhận ra Thánh Thần và làm chứng cho Ngài.
Khi thông truyền những quyết định được Công Đồng Giêrusalem ấn định cho cộng
đoàn ở Antiôkia, các ngài viết, “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”. Các
ngài chân nhận rằng, chính Chúa Giêsu, Đấng mỗi ngày, làm cho họ có thêm “những
người được cứu”, chứ không phải những nỗ lực thuyết phục của con người.
6. Và từ đó tới nay cũng như vậy? Chẳng có gì thay đổi sao, thưa Đức Thánh
Cha?
Kinh nghiệm của các tông đồ như một
kiểu mẫu luôn có giá trị. Chỉ cần nghĩ đến những gì đã xảy ra cùng lúc trong sách
Công Vụ Tông Đồ, chúng không hề bị gò ép. Đó
là một câu truyện của con người; ở đó, các môn đệ luôn đến sau, khi họ đến thì
Thánh Thần đã hoạt động rồi. Ngài chuẩn bị và hoạt động trong các tâm hồn; Ngài
đảo lộn các kế hoạch của họ. Chính Ngài đồng hành, hướng dẫn và an ủi họ
trong mọi cảnh huống mà họ thấy mình còn sống sót. Khi các vấn đề và các cơn bách
hại xảy đến, Thánh Thần cũng hoạt động ở
đó theo một cách thế thậm chí còn kinh ngạc hơn, bằng sự xoa dịu, ủi an của Ngài
như những gì đã xảy ra sau cuộc tử đạo tiên khởi của Thánh Têphanô.
7. Điều gì xảy ra sau đó thưa Đức Thánh Cha?
Thời kỳ bách hại nổi lên, nhiều môn
đệ trốn khỏi Giêrusalem, họ đến miền Giuđêa và Samaria. Ở đó, trong khi bị phân
tán và lẩn trốn, dẫu cho lẻ loi và không có sự hiện diện của các tông đồ vốn
đang ở lại Giêrusalem, họ vẫn bắt đầu loan báo Tin Mừng. Họ được rửa tội và
Thánh Thần cũng ban cho họ dũng khí tông đồ. Ở đó, lần đầu tiên chúng ta nhận ra rằng, chỉ cần phép rửa là đủ để trở
thành người rao giảng Tin Mừng. Và đó là truyền giáo; truyền giáo là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chẳng có gì gây kích
động, cũng chẳng cần phải tổ chức, phải gào thét; chẳng cần quảng cáo hay mưu mẹo
gì cả. Tất cả những gì chúng ta cần làm
là cầu xin cho có thể lặp lại kinh nghiệm ấy ngay hôm nay; cái kinh nghiệm khiến
chúng ta có thể nói, “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”.
8. Thưa Đức Thánh Cha, nếu không có kinh nghiệm này, những lời kêu gọi cổ
võ cho việc truyền giáo sẽ có ý nghĩa gì?
Không
có Chúa Thánh Thần, ước muốn truyền giáo sẽ trở thành một cái gì đó hoàn toàn khác.
Tôi có thể nói, đó là một kế hoạch chinh phục, với cớ là chúng ta đang chinh phục
một điều gì đó; một chinh phục đạo đức,
hay có thể, một chinh phục ý thức hệ, vốn có thể được thực hiện, thậm chí, với
những ý hướng ngay lành. Nhưng đó là một
điều gì khác, chứ không phải truyền giáo.
9. Trích dẫn lời Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Đức Thánh Cha thường lặp đi lặp
lại rằng, Giáo Hội phát triển nhờ sự cuốn hút. Ý của Đức Thánh Cha là gì? Ai cuốn
hút? Ai bị cuốn hút?
Chúa Giêsu nói điều đó trong Tin Mừng
Gioan, “Khi Tôi được giương lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”;
cũng trong Tin Mừng Gioan, Ngài còn nói, “Không ai có thể đến được với Tôi nếu
Chúa Cha, Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy”. Giáo Hội đã luôn luôn nhận
ra rằng, đây là một mẫu thức đặc thù của mọi hoạt động vốn đem chúng ta đến gần
Chúa Giêsu và Tin Mừng hơn. Đó không phải là một sự thuyết phục, một sự giải
thích hợp lý, cũng không phải là việc có được một chỗ đứng nào đó; không phải
là một áp lực hay một sự cưỡng ép. Nhưng
nó luôn luôn là một sự cuốn hút; ngôn sứ Giêrêmia đã nói rồi, “Ngài quyến
rũ con, lạy Chúa, và con đã để cho ngài quyến rũ”. Và điều này đúng với các
tông đồ, các nhà truyền giáo và cũng đúng với công việc của họ.
10. Nhưng làm thể nào để những gì Đức Thánh Cha vừa mô tả có thể xảy ra?
Đó
chính là sự ủy nhiệm ra đi và loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu vốn đến từ bên
trong, bằng việc phải lòng vì yêu mến, bằng sức cuốn hút của tình yêu.
Người ta không bước theo Chúa Kitô, ngay cả, khó trở thành một người loan báo Tin
Mừng, vì một quyết định được đưa ra từ bàn tròn, hoặc do hoạt động của chính
người đó. Ngay cả động lực truyền giáo
cũng chỉ có thể có kết quả nếu nó xảy ra trong sự cuốn hút này và nhờ cuốn hút,
nó mới có sức truyền đến những người khác.
11. Những lời này có ý nghĩa gì cho sứ mạng và việc loan báo Tin Mừng thưa Đức
Thánh Cha?
Nó có nghĩa là nếu các bạn được cuốn
hút bởi Chúa Kitô, nếu các bạn lên đường và làm điều này điều kia vì được cuốn
hút bởi Chúa Kitô, thì những người khác sẽ chú ý đến nó mà không cần phải tốn
công; chẳng cần phải chứng tỏ thế này, thế kia, ‘hữu xạ tự nhiên hương’. Ngược
lại, bất cứ ai cho mình là nhân vật chính hay là người quản lý việc truyền giáo
dù với tất cả ý hướng tốt lành nhất và những mục đích được kê ra, thì thông thường,
rốt cuộc chẳng cuốn hút được ai.
12. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha nhìn nhận rằng, tất cả
sự cuốn hút này có thể khiến chúng ta choáng ngợp. Nó giống như những người trầm
mình xuống đại dương mà không lường trước những gì sẽ xảy đến; Đức Thánh Cha muốn
đề nghị điều gì qua hình ảnh này? Những lời này có liên quan đến việc truyền
giáo không?
Sứ mạng truyền giáo không phải là một
kế hoạch được thử nghiệm của một công ty, cũng không phải là màn trình diễn đại
chúng được tổ chức để huênh hoang, hầu xem có bao nhiêu người tham gia nhờ vào
việc quảng cáo của chúng ta. Chúa Thánh
Thần làm việc như Ngài muốn, khi Ngài muốn và nơi Ngài muốn; và điều này có thể
khiến chúng ta choáng ngợp. Vậy mà cao
điểm của sự tự do chính xác nằm ở chỗ, một người để cho mình được mang đi bởi
Chúa Thánh Thần, người ấy từ chối sự cần thiết phải tính toán và kiểm soát mọi
sự. Đây chính xác là cách thức chúng ta nên giống chính Chúa Kitô, Đấng
trong mầu nhiệm phục sinh của Ngài đã học được cách ở lại trong sự dịu hiền của
vòng tay Chúa Cha. Hoa trái mầu nhiệm của
việc truyền giáo không hệ tại ở những ý hướng, phương pháp, sức đẩy, và những
sáng kiến của chúng ta, nhưng nó nằm chính xác ở sự choáng ngợp này: sự choáng
ngợp mà chúng ta nhận thức khi nghe những lời này của Chúa Giêsu, “Không có thầy,
anh em chẳng làm gì được”.
13. Đức Thánh Cha cũng thường lặp lại, Giáo Hội phát triển “bằng chứng tá”.
Khi tập trung sự chú ý vào điều này, Đức Thánh Cha muốn nói gì?
Thực
ra, chính sự cuốn hút làm cho chúng ta trở thành những chứng nhân.
Chứng tá này chứng thực những gì Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã thực sự hoàn tất
trong cuộc sống mỗi người. Sau khi phục sinh, chính Chúa Kitô đã mặc khải chính
mình cho các tông đồ. Chính Ngài làm cho các ông trở thành những chứng nhân; thêm
vào đó, chứng tá này không dành cho riêng mình, chúng ta là những chứng nhân
cho các công trình của Thiên Chúa.
14. Một điều khác mà Đức Thánh Cha cũng thường nhắc lại; ở đây, xem ra có vẻ
tiêu cực: Giáo Hội không phát triển bằng việc cải đạo người khác, và sứ mạng của
Giáo Hội cũng không phải là cải đạo. Tại sao Đức Thánh Cha lưu ý điều này nhiều
đến thế? Liệu có phải là để duy trì mối tương quan tốt với các Giáo Hội khác và
dễ dàng đối thoại với các truyền thống tôn giáo khác?
Vấn đề cải đạo, thực ra, không chỉ
đi ngược với tiến trình đại kết và đối thoại liên tôn, nhưng thuyết cải đạo còn xuất hiện ở bất cứ
nơi nào có ý định làm cho Giáo Hội phát
triển bằng cách giảm trừ việc nhấn mạnh đến sức cuốn hút về phía Chúa Kitô và
hoạt động của Chúa Thánh Thần; để rồi, tập trung mọi việc vào bất cứ loại
hình “diễn từ khôn ngoan” nào. Vì thế, chủ
nghĩa cải đạo tiên vàn gạt Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ra khỏi sứ mạng truyền
giáo của Giáo Hội, cả khi chúng ta tuyên bố mình nói và làm nhân danh Chúa Kitô.
Thuyết cải đạo tự bản chất luôn luôn là
bạo lực, cả khi nó được che giấu hay được thực hành với các cách thế xem ra
trong sạch. Nó không chấp nhận tự do và khoan dung mà qua đó, đức tin có thể
được thông truyền từ người này sang người khác nhờ ân sủng. Đây là lý do tại
sao thuyết cải đạo không chỉ là một điều gì đó thuộc quá khứ, thuộc về thời thực
dân đã qua, hoặc những trường hợp cải đạo do ép buộc hay mua bán, hứa hẹn về những
lợi lộc vật chất. Ngày nay chủ nghĩa cải
đạo cũng có thể tồn tại ngay trong các giáo xứ, các cộng đoàn, các phong trào
và các dòng tu.
15. Vậy truyền giáo có nghĩa là gì, thưa Đức Thánh Cha?
Truyền
giáo có nghĩa là công bố chứng tá của mình về Chúa Kitô bằng những từ ngữ cụ thể
và giản dị như các tông đồ đã làm, không cần phải tạo ra những huấn từ mang
tính thuyết phục. Việc loan báo Tin Mừng thậm chí có thể
bị dể duôi, nhưng nó luôn vượt qua mãnh lực của cớ vấp phạm thập giá; nó luôn
phù hợp với con đường được chỉ ra trong thư Thánh Phêrô, vốn đơn thuần hàm chứa
trong những ‘lý do được cung cấp’ về một niềm hy vọng của người này dành cho
người khác, một niềm hy vọng vẫn luôn là cớ vấp phạm và dại khờ trong con mắt người
đời.
16. Làm sao chúng ta nhận ra một Kitô hữu truyền giáo, thưa Đức Thánh Cha?
Một
đặc tính cụ thể để nhận ra là người ấy hành động như những người dẫn dắt,
chứ không là những người kiểm soát của đức
tin. Việc tạo điều kiện, làm cho mọi sự nên dễ dàng, không đặt ra những ngăn trở
đối với mong muốn của Chúa Giêsu để ôm lấy, chữa lành hết thảy mọi người; không
đặt ra sự chọn lọc, không áp đặt những “giá cả mục vụ”, không đóng vai người
canh gác kiểm soát những ai có quyền vào cửa. Tôi nhớ đến các cha xứ và những
cộng đoàn ở Buenos Aires, vốn đã thiết lập nhiều sáng kiến để làm cho việc tiến
tới Bí tích Rửa tội được dễ dàng. Trong những năm gần đây, họ nhận thấy con số
những người không được rửa tội gia tăng vì nhiều lý do, thậm chí là do những lý
do xã hội học, và họ muốn nhắc nhở mọi người rằng, được rửa tội là một điều gì
đó bình thường, mọi người đều có quyền đòi hỏi, cho chính họ và cho con cháu. Đường hướng mà các cha xứ và các cộng đoàn ấy
đã làm có chung một mục tiêu: không
đặt thêm gánh nặng, không đưa ra những yêu sách, xoá bỏ bất cứ khó khăn nào mang
tính văn hoá, tâm lý hay thực tiễn vốn có thể khiến người ta trì hoãn hay loại
bỏ ý muốn rửa tội cho con cái mình.
17. Ở châu Mỹ, trong những buổi đầu truyền giáo, các thừa sai đã tranh luận
về việc ai “xứng đáng” nhận phép rửa. Những cuộc tranh cãi ấy đã chấm dứt như
thế nào thưa Đức Thánh Cha?
Đức
Thánh Cha Phaolô III đã bác bỏ lý thuyết của những người tuyên bố rằng, lẽ tự
nhiên, người da đỏ Bắc Mỹ vốn dĩ “không có khả năng” đón nhận Tin Mừng và ngài
cũng bác bỏ việc các thừa sai chọn lựa để xác định ai sẽ là người dễ dàng đến với
phép rửa của họ. Chúng có vẻ là chuyện của quá khứ;
song, ngay cả hiện nay, cũng có những nhóm và những người tự cho mình được ơn
soi sáng, và thậm chí, họ cô lập việc loan báo Tin Mừng bằng những lý luận méo
mó của họ vốn chia tách thế giới thành những người “văn minh” và những kẻ “chưa
được khai hoá”. Điều khiến họ cáu gắt và tức giận là có người cho rằng, có thể,
Chúa cũng ưu ái những người “cầu bơ cầu bất”. Họ đánh giá một phần lớn gia đình
nhân loại như thể những người này thuộc về một tầng lớp thấp kém hơn, vốn không
thể đạt được trình độ phù hợp trong đời sống tri thức lẫn thiêng liêng theo những
tiêu chuẩn của họ. Trên nền tảng này, những ai bị coi là tầng lớp thứ yếu sẽ
ngày càng bị khinh miệt. Tất cả chuyện này cũng đã nổi cộm trong suốt Thượng Hội
đồng Giám mục về khu vực Amazon.
18. Một số người có khuynh hướng nhắm đến một sự phân biệt rạch ròi giữa việc
loan báo đức tin và công tác xã hội. Họ nói, chúng ta không được giản lược sứ mạng
truyền giáo bằng một hình thức hoạt động xã hội. Điều đó có đáng để bận tâm
không, thưa Đức Thánh Cha?
Tất
cả những gì nằm trong phạm vi của các mối phúc và thực thi lòng thương xót thì
đều phù hợp với sứ mạng truyền giáo, tất cả đã là loan báo Tin Mừng, là truyền
giáo rồi. Giáo Hội không
phải là một tổ chức phi chính phủ; nhưng Giáo Hội là điều gì khác hoàn toàn, Giáo
Hội là một bệnh viện dã chiến, nơi tất cả mọi người được đón chào, như họ là họ,
nơi mà những vết thương của mọi người được chữa lành. Và đó là một phần sứ
mạng của Giáo Hội; mọi sự đều phụ thuộc vào tình yêu vốn làm động lòng những ai
thực thi sứ mạng. Nếu một thừa sai giúp đào một cái giếng ở Mozambique vì người
ấy ý thức rằng, những người mà anh ta rửa tội và giảng phúc âm cần đến nó, thì
làm sao có thể nói rằng công việc đó không liên quan gì đến việc phúc âm hoá?
19. Thưa Đức Thánh Cha, đâu là những mối quan tâm và sự nhạy bén cần thực
thi trong những tiến trình hướng đến việc làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng
trổ sinh hoa trái giữa bối cảnh văn hoá xã hội đa dạng ngày nay?
Kitô
giáo không chỉ khư khư giữ lấy một mô hình văn hoá kiểu mẫu nào đó.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết, “Trong khi giữ vững vẹn toàn
chân lý cho chính mình, với lòng trung thành không thể lay chuyển để loan báo
Tin Mừng và truyền thống của Giáo Hội, thì Kitô giáo cũng sẽ phản chiếu những
khuôn mặt khác của các nền văn hoá và dân tộc mà ở đó, Kitô giáo được đón nhận
và bén rễ”. Chúa Thánh Thần tô điểm Giáo
Hội, bằng những ngôn ngữ mới của những cá nhân và cộng đồng đón nhận Tin Mừng.
Vậy Giáo Hội, bằng cách mặc lấy những giá trị của các nền văn hoá khác nhau, trở
nên “Tân nương điểm trang lộng lẫy” như ngôn sứ Isaia đã loan báo. Trên thực
tế cũng có những nền văn hoá đã liên kết, gần gũi với việc rao giảng Tin Mừng
và sự phát triển của tư tưởng Kitô giáo. Nhưng
trong thời đại chúng ta, việc Giáo Hội nhớ rằng, sứ điệp mặc khải không được định
hình bởi một nền văn hoá cụ thể nào lại càng trở nên khẩn thiết hơn. Và khi gặp gỡ những nền văn hoá mới, hay những
nền văn hoá vốn đã không chấp nhận việc truyền giáo, thì chúng ta càng không được
tìm cách áp đặt một hình thái văn hoá cứng nhắc nào bên cạnh việc phúc âm hoá. Cũng
thế, trong sứ mạng truyền giáo ngày nay, việc không đem theo bao bị cồng kềnh
thậm chí còn quan trọng hơn chính việc truyền giáo.
20. Về sứ mạng truyền giáo và tử đạo, Đức Thánh Cha có ý gì khi thường gợi
lại mối liên hệ mật thiết thống nhất hai thực tại này?
Trong đời sống Kitô hữu, thực tế tử đạo và phúc âm hoá có chung một gốc gác,
một nguồn mạch: khi tình yêu của Thiên Chúa rót vào tâm hồn chúng ta bằng việc
Chúa Thánh Thần ban sức mạnh, lòng can đảm và sự ủi an. Tử đạo là cách diễn
tả cực đại của sự nhận biết Chúa Kitô và làm chứng cho Ngài, vốn biểu trưng cho
việc chu toàn sứ mạng và hoàn tất sứ vụ tông đồ. Tôi luôn nghĩ đến các anh em tu sĩ chính thống Coptic bị thảm sát tại
Lybia, những người không ngừng thầm thĩ danh thánh Chúa Giêsu khi họ bị chém đầu.
Tôi nghĩ đến những nữ tu của mẹ Têrêxa bị giết tại Yêmen, khi họ đang săn sóc
các bệnh nhân Hồi Giáo trong một mái ấm dành cho những người già yếu tật nguyền.
Các nữ tu ấy vẫn đang mặc những chiếc tạp dề lao động bên ngoài bộ tu phục khi
bị sát hại; họ đều là những người chiến thắng chứ không phải các nạn nhân.
Và cuộc tử đạo của họ, đến mức đổ máu, soi sáng cho cuộc tuẫn giáo mà mọi người
có thể phải chịu trong đời sống, bằng việc làm chứng cho Chúa Kitô mỗi ngày.
Chúng ta có thể thấy được điều ấy khi thăm viếng các nhà truyền giáo cao niên tại
các nhà hưu dưỡng; họ thường bị hao mòn bởi cuộc đời đã trải qua. Một thừa sai kể với tôi rằng, nhiều người
trong họ đã mất trí nhớ và chẳng còn nhớ một chút nào về những việc lành họ đã
làm, “Nhưng điều ấy chẳng hề gì”, ngài nói với tôi, “Bởi vì Chúa nhớ rất kỹ”.
Chuyển
ngữ: Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Nguồn: https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2019-11/pope-francis-interview-valente-mission-book.html