TIN VÀ KHÔNG TIN
Trong thời đại 4.0 này,
việc tin một người đã chết rồi ba ngày sau sống lại được coi là điều nhảm nhí
và điên rồ. Điều đó chẳng có chi lạ. Bởi lẽ, vào thời các tông đồ, các quan
chức Rô-ma và những người lãnh đạo Do Thái Giáo cũng đã cho việc các ông khẳng
định Đức Giê-su đã chết và đã sống lại là điều tào lao. Các tông đồ không vì
thế mà nhụt chí, vì các ông không thể không nói ra những điều mình được mắt
thấy tai nghe (x. Cv 4,21). Hơn thế nữa, các ông còn lấy mạng sống mình đề đảm
bảo những gì các ông nói.
Hai mươi thế
kỷ đã qua, có rất nhiều người tin vào Đức Giê-su Phục sinh, nhưng cũng có rất
nhiều người phủ nhận Người. Thống kê mới nhất của Toà Thánh cho thấy, Tính đến
ngày 31 tháng 12 năm 2021, dân số thế giới là 7.785.769.000 (Bảy tỷ, bảy trăm
tám mươi lăm triệu bảy trăm sáu mươi chín ngàn người) trong đó số tín hữu Công
giáo là 1.375.852.000 (Một tỷ ba trăm bảy mươi lăm triệu tám trăm năm mươi hai
ngàn người). Như vậy, tỷ lệ người Công giáo trên toàn thế giới ở mức 17,67%. Đó
là chưa tính những tín hữu Ki-tô thuộc các giáo phái khác.
Một người đã
chết nay sống lại là điều khó tin, ngay cả với ông Tô-ma, một trong mười hai
tông đồ. Ông đặt ra những điều kiện cho niềm tin của mình, mặc dù trước đó, ông
đã tận mắt chứng kiến những phép lạ ngoạn mục Chúa Giê-su đã làm. Ông đại diện
cho trường phái hồ nghi, ở thời nào cũng có, nhất là trong thời đại của chúng
ta hôm nay. Trường phái này chỉ tin vào những gì cảm nhận bằng giác quan.
Tuy vậy, khi
đặt ra những điều kiện để tin như ông Tô-ma, là chúng ta đặt Thiên Chúa ngang
hàng với người phàm. Nói cách khác, khi đòi phải có điều kiện, thì không còn là
đức tin nữa, vì tin là chấp nhận những thực tại vô hình hay những thực tại mình
không cảm nhận bằng giác quan. Hơn nữa, nếu đặt để niềm tin của mình nơi quyền
năng của Thiên Chúa, thì cần xác tín: “không có gì mà Chúa không làm được”.
Mặc dù ông
Tô-ma chẳng có lý do gì để thách thức Thiên Chúa, nhưng Chúa Giê-su Phục sinh
vẫn chấp nhận lời thách thức đó. Vào ngày thứ tám sau sự kiện phục sinh, Chúa
Giê-su đã hiện ra với các tông đồ, có cả Tô-ma. Cuộc gặp gỡ này đã chứng minh
những lời các tông đồ nói trước đó là xác thực. Đức Giê-su nhắc lại những thách
thức của ông Tô-ma trước đó. Trước những lời này của Chúa, ông Tô-ma chẳng còn
nói được điều gì. Ông chỉ có thể thưa với Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con!”. Đây là lời tuyên xưng đức tin. Đây cũng lời sám hối, đồng thời
diễn tả niềm xác tín vào Đấng Phục sinh. Chúng ta lưu ý: ông Tô-ma không còn
gọi Chúa Giê-su là Thày như trước đó, mà ông tuyên xưng Người là Chúa và là
Thiên Chúa. Những danh xưng này cho thấy ông đã thực sự tin vào Đức Giê-su. Đây
cũng là lời tuyên xưng đức tin của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi.
Trong cả ba năm A,B,C, của Chúa nhật thứ hai Phục sinh, Phụng vụ đều cho chúng ta
nghe cùng một bản văn, đó là trình thuật về sự cứng lòng của ông Tô-ma trong
Tin Mừng theo thánh Gio-an. Mặc dù Chúa Giê-su Phục sinh là nhân vật quan trọng
nhất, nhưng xem ra ông Tô-ma lại dành một vị trí đặc biệt trong trình thuật
này. Phải chăng Phụng vụ muốn lưu ý chúng ta: vẫn còn đó những Tô-ma, trải qua
mọi thời đại. Rất nhiều người giống như Tô-ma, chủ trương học thuyết thực
nghiệm. Họ chỉ tin vào những gì mắt thấy tai nghe. Các tông đồ, là những chứng
nhân mắt thấy tai nghe và kể lại cho chúng ta sự kiện Chúa sống lại với niềm
xác tín. Trước Công nghị Do Thái. Các ông tuyên bố: Đức Giê-su, vị ngôn sứ
thành Na-gia-rét, là người có quyền năng trong lời nói và hành động, đã chết và
đã sống lại. Các ông sẵn sàng lấy mạng sống để làm chứng cho điều các ông nói.
Một điều kỳ diệu, là các tông đồ vốn là những người dân chài chất phác ít học,
nhưng lại uyên bác và trích dẫn Thánh Kinh để minh chứng rằng các lời ngôn sứ
xưa kia đã thành hiện thực.
Chúa Giê-su
Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Tác giả sách Tông đồ Công vụ diễn tả
sức sống kỳ diệu của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi: cộng đoàn đông đảo “chỉ có
một lòng một ý. Không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với
họ, mọi sự đều là của chung”. Điều gì đã làm nên sự kỳ diệu ấy? Thưa, Đấng Phục
sinh.
Thời nào
cũng thế, vẫn còn đó những người tin và những người không tin vào Đức Giê-su.
Tuy vậy, khi tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và sống lại, các
Ki-tô hữu được trở nên con Thiên Chúa. Thánh Gio-an tông đồ viết: “Phàm ai tin
rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra”. Đó là
cuộc sinh hạ trong đức tin và ân sủng. Họ cũng sẽ chiến thắng thế gian như Đức
Giê-su đã chiến thắng. Các Ki-tô hữu cần thường xuyên ý thức về sức sống mới
trong tâm hồn và cuộc sống của mình, để củng cố đức tin và thực sự nên giống
Đức Giê-su Phục sinh. Chúng ta thấy đó là lý do tại sao Phụng vụ nhấn mạnh và
cầu nguyện cho những người tân tòng, trong mùa Phục sinh.
Chúa nhật II
Phục sinh cũng là Chúa nhật kính Lòng Chúa thương xót. Xin cho chúng ta cảm
nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, thể hiện qua cuộc đời và sứ mạng của Đức
Giê-su nơi trần thế, nhất là qua cuộc khổ nạn và phục sinh vinh quang của
Người. Xã hội hôm nay rất thiếu vắng lòng thương xót. Đó là nguyên nhân dẫn tới
bạo lực, hận thù và xung đột chia rẽ. Khi cảm nhận lờng thương xót của Thiên
Chúa, chúng ta sẽ sống khiêm tốn hơn và dễ dàng thực thi lòng thương xót đối với
tha nhân.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
Nguồn: TGP Hà Nội