BƯỚC ĐẦU TIÊN CHO TIẾN TRÌNH
HUẤN LUYỆN LINH MỤC, TU SĨ
Mục tiêu đầu tiên của hành trình huấn luyện là giúp người thụ huấn
biết mình. Vì thế, đào tạo là một quá trình giúp người thụ huấn trở về với
chính mình để nhận biết mình, khám phá những tiềm năng và những giới hạn của
bản thân. Đây là bước đầu tiên và rất quan trọng cần phải thực hiện.
1. Biết mình thật khó
nhưng cần thiết
Trong cuộc sống, có một điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ đó là
chúng ta biết đủ thứ nhưng lại rất ít biết mình. Chúng ta cố gắng học nhiều thứ
nhưng lại ít học để nhận biết mình. Chúng ta có thể khám phá vụ trụ, thế giới
bao la, học hỏi nhiều môn khoa học khác nhưng lại ít để tâm chinh phục chính
mình.
Hơn nữa, việc nhận biết chính mình là một công việc khó khăn và
phức tạp vô cùng. Dù già hay trẻ, đã nhiều lần chúng ta nói: “Thật sự, tôi
không hiểu được tôi.” Điều đó rất đúng và cũng chẳng lạ gì vì con người thường
không hiểu chính mình. Con người chỉ đi từ từ từng bước trong việc hiểu biết
bản thân, tự mình nó và cùng với nhân loại. Các triết gia, thần học gia cũng
như các bậc thầy tu đức trong Giáo Hội đều công nhận: biết mình khó vô cùng.
Người Việt Nam diễn tả sự khó khăn đó trong câu ca dao: “Sông sâu còn có kẻ dò,
nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Chúng ta không hiểu hết chính mình bởi vì mỗi người là một thế
giới vô cùng huyền bí, sống động và phong phú, nếu không muốn nói là vô cùng
phức tạp. Đối diện với con người là đối diện với một huyền nhiệm lớn lao. Trong
chúng ta, có những khoảng không gian sâu thẳm, mà chúng ta ít khi để tâm khám
phá tường tận, đó là thế giới nội tâm của chính mình, là sự tổng hòa kỳ lạ giữa
các tầng nấc thể lý, tình cảm và tinh thần trong con người.
Quả thế, theo cái nhìn của Kitô giáo về con người, mỗi người là
một huyền nhiệm, một nhân vị, chứ không phải là một sự vật, đồ vật hay như một
“vấn đề”. Mỗi người được Thiên Chúa tạo dựng một cách kỳ diệu, nên mỗi người là
một nhân vị hết sức độc đáo, duy nhất và không thể thay thế. Mỗi người có những
vẻ đẹp, sự phong phú, những tiềm năng, sở trường và sở đoản riêng. Mỗi người có
sự khác biệt, không ai giống ai. Mỗi người có một phẩm giá vô cùng cao quý như
Kinh Thánh cho biết: “Con người là hình ảnh Thiên Chúa” (St 2, 3).
Chính vì sự phong phú đó mà chúng ta ít hiểu biết mình cách trọn
vẹn. Nhưng biết mình là bước đầu tiên và quan trọng để có thể đào tạo mình nên
người tốt, nên một Kitô hữu trưởng thành, trở thành một linh mục hay một tu sĩ
thánh thiện. Đào tạo phải giúp ứng sinh trở về với chính mình để nhận biết
mình. Bởi vì, biết mình là điều kiện tiên quyết của mọi thay đổi nội tâm, tinh
thần và nhân cách.
2. Làm sao để biết mình?
Hành trình huấn luyện được bắt đầu từ khi ứng sinh biết được con
người thật của mình. Nói một cách cụ thể, đó là khi ứng sinh nhận biết những
mặt mạnh và mặt yếu, những vùng tự do và thiếu tự do, nhờ đó mà họ có thể quảng
đại “xin vâng” khi đáp lại lời mời gọi, đồng thời họ biết rằng giữa con người
hiện thực của mình và dự phóng của Thiên Chúa nơi họ vẫn còn một con đường dài.
Để nhận biết mình, trước hết cần phải nhận biết căn tính của mình
và sau đó là khám phá sự thật con người của mình.
2.1. Ý thức mình là ai
Biết mình trước hết là sự nhận biết mình là ai. Đây là sự nhận ra
hay xác nhận căn tính mình để sống đúng với căn tính đó. Nếu không ta sẽ bị vong
thân hay vong ngã. Nghĩa là ta đánh mất chính mình, không xác định được mình là
ai, không hình thành được căn tính của mình. Đây quả là một thứ đánh mất nền
tảng! Ngày hôm nay có nhiều người đánh mất ý thức về căn tính của mình. Có
nhiều bạn trẻ sống trong tình trạng mập mờ về căn tính nơi họ. Giáo dục tiên
vàn phải giúp cho người thụ huấn ý thức về căn tính của mình, nhận thức cái tôi
hiện tại mà mình đang có và cái tôi lý tưởng mà mình được mời gọi trở thành.
Với tư cách là một con người, mỗi người là một hữu thể có ý thức và tự do. Mỗi
người được mời gọi lớn lên trong ý thức, để làm chủ bản thân, và lớn lên trong
tự do, để chịu trách nhiệm về bản thân. Với tư cách là một Kitô hữu, để siêu
việt bản thân, ta được mời gọi sống trong tương quan liên vị mật thiết với
Thiên Chúa và với tha nhân. Với tư cách là người theo Chúa trong ơn gọi tu trì,
ta được mời gọi yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự (x. Mc 12, 29-30) và hiến
thân phục vụ tha nhân theo gương của Đức Kitô. Ý thức tôi là ai giúp ta xây
dựng đời mình, thể hiện mình và phát triển mình theo căn tính đó.
2.2. Nhận biết sự thật
về mình
Biết mình là một quá trình trở về khám phá chính bản thân, đối
diện với con người thật của mình, khám phá hành vi, thái độ, tình cảm, những
khuynh hướng, khả năng, tiềm năng, tính tình, nhu cầu, động lực thúc đẩy và
những giới hạn, khuyết điểm, tật xấu cũng như những sự bất nhất và xung đột
trong con người ta. Đây là sự hiểu biết, sự khám phá càng ngày càng sâu về
chính bản thân mình.
– Cách hành xử và thái độ:
Trước hết, ứng sinh phải chú trọng đến hành vi và thái độ của
mình. Chúng ta biểu lộ mình cách dễ thấy nhất qua hành vi và thái độ. Những
tình cảm và động lực bên trong sẽ thể hiện ra bên ngoài qua thái độ và cách
hành xử của chúng ta. Ta phải lưu ý đến các thói quen, các phát biểu, các mối
tương quan, phản ứng, thái độ tích cực hay tiêu cực trước cuộc sống, sự đồng
nhất hay bất nhất giữa lời nói và việc làm. Các hành vi và thái độ cần được
nhận biết và phân định theo nguyên tắc: “Ở đâu thiếu sự mạch lạc giữa giá trị
mà họ tuyên xưng và hành vi họ thực hiện, nơi ấy cần phải xem xét cẩn thận.”
Hành vi và thái độ của tôi có phù hợp với Lời Chúa dạy không? Chúng có phù hợp
với sự chân thật trong lòng mình không? Hay chỉ là “ngoài miệng thơn thớt nói
cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” như cụ Nguyễn Du diễn tả.
– Những tình cảm và cảm xúc:
Tôi có trưởng thành về mặt tình cảm và cảm xúc chưa? Hỉ, nộ, ai,
cụ, ái, ố, dục trong tôi như thế nào, có phù hợp với đời tu không? Huấn luyện
con người và nhất là huấn luyện linh mục – tu sỹ đòi hỏi quan tâm và huấn luyện
cảm xúc, tình cảm và tâm tình của ứng sinh. Cần phải giúp họ nhận biết, lớn lên
và trưởng thành con tim.
– Các khuynh hướng:
Khuynh hướng vị kỷ hay
vị tha, quy ngã hay quy xã hội, hoặc quá thích tiền bạc, quyền lực, hoặc quá
lập dị, cá nhân chủ nghĩa, gây hấn hoặc nhu nhược… Biết mình là biết các khuynh
hướng đó. Cái nào bị phình to ra, cần phải nhận biết để điều chỉnh cho phù hợp
và quân bình.
– Những động lực thúc đẩy:
Một cách chung chung, động lực thường được hiểu như một ước muốn,
một khao khát thực hiện một dự phóng, một mục tiêu nào đó của cuộc sống. Động
lực này có những yếu tố bên trong và những yếu tố bên ngoài. Các yếu tố bên
trong nằm ở tầng sâu thẳm của nội tâm mỗi người.
Nhận biết những động lực thúc đẩy ta hành động đóng vai trò quan
trọng trong giáo dục. Đó là sự nhận biết giúp ta hiểu “tại sao ta hành động”.
Sự nhận biết này giúp ta nhận diện và phân định các động lực thúc
đẩy ta hành động. Có những động lực thuộc ý thức, có những động lực vô thức và
có những động lực siêu nhiên. Chúng có phù hợp với đạo lý và lương tâm không?
Nhất là chúng có phù hợp với các tiêu chuẩn của Tin Mừng không? Ta cần phải xem
xét các động lực thúc đẩy. Một hành vi nhân linh có thể được thực hiện bởi rất
nhiều lý do khác nhau. Ví dụ: một hành vi bác ái giúp người nghèo, nhưng hành
vi đó có thể được thúc đẩy bởi lý do siêu nhiên như Chúa Giêsu dạy, hay bởi lý
do tâm lý và nhân loại như để được nhận biết, để quảng cáo mình hay gây sự chú
ý của người khác; hoặc giúp người nghèo để được người khác giúp lại mình theo
kiểu “hợp tác nuôi cá, cá nuôi xã mình” v.v…
Khi chọn lựa đời sống tu trì, ứng sinh có thể được thúc đẩy bởi
nhiều động lực khác nhau. Có những động cơ ban đầu rất trần tục và nhân loại.
Ta có thể kể ra một số động cơ:
Đi tu để thoát ly đời sống gia đình bất hạnh; để tìm kiếm đặc ân;
thỏa mãn tham vọng của cha mẹ; cần có một người cha hay người mẹ; sợ đàn ông
hay đàn bà (tương giao); tìm an toàn; được kính trọng vv… Đây là những động cơ
giống với trường hợp của hai anh em Gioan và Giacôbê: theo Chúa để được ngồi
bên hữu, bên tả Chúa trong vương quốc Người (x. Mc, 10, 20-37).
Có những động cơ siêu nhiên. Đó là những động cơ phát xuất từ sự
trưởng thành tâm linh khi bước theo Chúa. Hoặc là từ chính ân sủng của Thiên
Chúa lôi kéo và thúc đẩy một ứng sinh theo Chúa. Đi tu vì tình yêu Chúa và dâng
hiến chính mình phục vụ tha nhân.
Các ứng sinh cần thanh luyện những yếu tố “trần tục và nhân loại”
trong ước muốn trở thành linh mục hay tu sĩ. Tiếp đến, họ cần phải vun trồng
động lực chính đáng của ơn gọi: là muốn biết và yêu mến Chúa Giêsu, muốn giúp
người khác cũng nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu. Đây là “ý hướng ngày lành” để
theo Chúa, là động lực chính yếu và căn bản của ơn gọi tu trì mà Giáo Luật đòi hỏi.
Để xây dựng một ý hướng ngay lành trong ơn gọi, các ứng sinh cần có xác tín như
thánh Phaolô: “Tôi coi tất cả là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được
biết Đức Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như
rơm rác, để được Đức Kitô” (Pl 3, 8).
– Những xung đột nội tâm:
Biết mình bao gồm việc nhận biệt các xung đột nội tâm. Đây là sự
xung đột giữa lý tưởng, giá trị và sự thiếu trưởng thành, hoặc bệnh hoạn tâm
lý, hoặc sự phình to các khuynh hướng. Hay đúng hơn những xung đột nội tâm là
hậu quả của sự rối loạn, thiếu hòa điệu giữa tình cảm, động lực thúc đẩy và
cách hành xử, đời sống luân lý với các giá trị và lý tưởng mà mình theo đuổi.
Cần phải nhận diện những nguyên nhân gốc rễ của những sự bất nhất hay những
xung đột đó. Nhận biết những sự bất nhất và mảnh gãy giữa các tầng nấc thể lý,
tình cảm và tinh thần trong con người chúng ta để hòa điệu và hội nhập các yếu
tố đó, hiệp nhất chúng nên một trong cùng một bản vị duy nhất.
Tất cả những điều này được khám phá trong sự liên hệ hiện nay giữa
quá khứ và hiện tại, hay giữa cái tôi hiện tại và cái tôi mà lẽ ra họ đã thể
hiện và phải thể hiện, cùng với những điều tích cực và tiêu cực trong cuộc mạo
hiểm của mọi thụ sinh.
3. Từ chân thành đến sự
thật
Như đã nói ở trên, biết mình thật quan trọng, vì nếu không biết
mình thì không thể trưởng thành, không thể có biến đổi trong huấn luyện. Nhưng
việc biết mình phải được thực hiện như thế nào?
Trước hết, chúng ta cần phải làm sáng tỏ điều này: nếu người thụ huấn biết mình
một cách chân thành thôi thì chưa đủ, mà họ còn phải biết mình một cách chính
xác. Vì chân thành thì chủ quan, còn sự thật thì khách quan. Chỉ chân thành với
mình mà thôi chưa phải là điều kiện cần và đủ của sự chính xác. Và họ cũng
không ngờ rằng giữa sự chân thành và sự thật họ là ai còn có một khoảng cách
dài thăm thẳm.
Thật vậy, có những sự hiểu biết về mình nhiều khi còn rất chủ quan và giới hạn,
cần phải vượt ra biên giới chủ quan để tiến tới sự hiểu biết về chính mình như
mình đang là một cách khách quan.
Đó là sự hiểu biết chính mình dựa theo sự thật về mình, không trốn
tránh, không giả vờ, không phỏng chiếu, không đeo mặt nạ đối với chính mình.
Người biết mình theo sự thật là người nhận biết cả những nguyên nhân ẩn bên
trong các hành vi và tâm tư của mình. Ta không chỉ nhận biết và thấu hiểu cảm
xúc trong lòng mà ta dễ nhận ra, nhưng còn phải biết cảm xúc ấy bắt nguồn từ
đâu – cội nguồn đích thật – và điều đó không phải lúc nào cũng hiển nhiên và dễ
nhận thấy. Chẳng hạn: một người nhận mình thường có khuynh hướng bám víu các
mối tương quan, khao khát và tìm kiếm tương giao vv…, người đó không chỉ nhận
biết những điều đó nhưng còn phải khám phá cho biết chúng phát xuất từ đâu, sự
thật đó phát xuất từ nhu cầu nào (trong trường hợp này có thể từ nhu cầu muốn được
yêu thương).
Thứ đến, họ phải tìm ra nguồn gốc và sự phát triển của nhu cầu ấy
trong cuộc sống quá khứ của mình. Khi họ khám phá được gốc rễ của cảm xúc hay
tìm kiếm sự thật của mình trong quá khứ, điều đó thường giúp họ hiểu rõ một số
nhu cầu nhất định trong đời sống tinh thần và những tính khí, tâm trạng liên
quan đến nhu cầu đó, hay hiểu được vai trò năng động tâm lý của xu hướng nội
tâm: ví dụ, nhu cầu yêu thương quá mức có thể bắt nguồn từ một hình ảnh bản
thân nghèo nàn, hay từ thói quen lôi kéo sự chú ý của người khác, hay từ nỗi sợ
cô đơn vv… Nếu họ nhận diện gốc rễ của cảm xúc ấy một các chính xác, họ có thể
can thiệp trên chính gốc rễ chứ không chỉ can thiệp trên hành vi.
Giáo dục là giúp ứng sinh có khả năng nắm bắt được sự thật, ngõ
hầu họ có thể quản lý sự tự do của mình. Quả là ngây ngô nếu xem việc biết mình
như một chuyện đương nhiên. Ai không muốn khám phá sự thật của mình, thì cũng
không bao giờ có tự do. Nếu trong thời gian đào tạo, ứng sinh không khám phá
được sự thật của mình, thì chẳng hy vọng gì trong tương lai họ sẽ khám phá
được; trong khi đó tất cả tiến trình huấn luyện hiện tại đã có nguy cơ rơi vào
quên lãng hay đưa đến hậu quả thiếu hữu hiệu và không có kết quả đối với họ.
Như thế, điều quan trọng là người thụ huấn phải khám phá tất cả
những điều ấy càng sớm càng tốt, ngõ hầu họ tập trung sự khôn ngoan vào việc
huấn luyện: chỉ khi nào họ ở trong sự thật, họ mới có thể thực hiện cuộc hành
trình của sự thật. Vì như Chúa Giêsu nói: “Sự thật sẽ giải phóng các con” (Ga
8, 32).
Tạm kết
Như vậy, có thể nói rằng: giai đoạn đầu tiên và nền tảng của quá
trình huấn luyện là giai đoạn khám phá bản thân để biết mình. “Giáo dục là đánh
thức lương tâm người thụ huấn để họ nhận ra sự thật đang hiện diện trong lương
tâm mình, sao cho họ có khả năng tự suy luận, tự phán đoán và tự do trong một
thế giới mà tự do là một sự mạo hiểm, một sự thủ đắc và không bao giờ là điều
có sẵn hay một quà tặng phú bẩm”.
Giáo dục là đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng để giúp ứng sinh “lôi
kéo” sự thật của mình ra. Nếu một ứng sinh không bao giờ khám phá được sự thật
của mình, thì chẳng bao giờ hy vọng người đó sẽ khám phá được gì về mình hoặc
họ sẽ có những thay đổi nào trong tương lai.
Lm Pet. Nguyễn Văn
Hương