Làng Plei Bla, ngày …tháng…năm…
Lớp học tiếng Bahnar với chú
Giớp bắt đầu vào buổi trưa, chiều đến , Cha Phaolô đưa chị em chúng tôi
vào Plei Bông tham dự Thánh Lễ khánh thành tượng đài Đức Mẹ của làng.
Lời ca tiếng hát với những điệu múa nhịp nhàng nhưng rất sốt sắng của
dân làng trong Thánh Lễ khiến chúng tôi thấy được Thiên Chúa đang hiện
diện cho dù tôi chẳng hiểu được một lời nào, nhưng tôi tin rằng đó là
lời kinh nguyện đẹp nhất mà họ dâng lên Thiên Chúa.
Sau Thánh Lễ chúng tôi làm quen với
dân làng bằng những nụ cười, câu chào hỏi bằng tiếng Bahnar bập bẹ
và ngọng nghịu nhưng xem ra mọi người đều hiểu, ai nấy cười nói “tay
bắt mặt mừng” như đã quen nhau từ lâu lắm rồi. Những bàn tay chai cứng,
thô sần của những người già, bàn tay nhỏ xíu mềm mại của các trẻ
thơ cứ hòa quyện bên nhau, những tiếng nói nụ cười tươi vui xem ra
thỏa mãn vì tình yêu thương nhau rất chân tình… nhưng sao trong tôi lại
dấy lên cảm giác đơn độc, mặc cảm nghèo nàn. Tôi thấy mình nghèo từ
cách diễn đạt đến lời nói, nghèo cả vật chất lẫn tinh thần. Chúng
tôi quá nghèo nên chẳng biết làm sao để đến với nhau, ngôn ngữ của
tôi thật giới hạn và nỗi lo về cái nghèo của tôi như cản bước chân
tôi!!!
Vậy tôi có gì không nhỉ, tôi tự
nhủ: “xem ra chúng tôi còn có nụ cười
và tấm lòng” là cái giàu nhất để trao nhau cùng lời cầu chúc bình
an của Thiên Chúa luôn ở với từng người.
Buổi chiều, hai chị em tôi vào làng
Plei Bla, khi đến gia đình anh chị Arich chúng tôi được đón tiếp thật
nồng hậu với một nồi cơm thơm nức, bên cạnh là một vài con cá khô
nhỏ chiên với nồi canh bí đỏ nấu rau đắng. Bữa cơm ấy sao mà ngon
đến lạ!
Đêm hôm ấy, trong ngôi nhà xa lạ
chúng tôi đã sống như những người thân giữa những người anh chị em
xiết bao gần gũi và yêu mến. Ngồi nói chuyện với anh Arich về một
niềm tin và một đức tin mà anh phải đổ máu, nước mắt và cả những
ngày bị tù tội để bảo vệ… thế mới biết: “Để Sống niềm Tin vào Thiên Chúa thật không dễ tí nào”.
Dẫu thế, tôi cũng học được một điều: chính niềm tin vào Thiên Chúa
đã cho anh Arich và gia đình một giá trị để sống và tồn tại. Anh đã
tìm được ý nghĩa đời mình và chính lúc đó niềm hạnh phúc của anh
và gia đình đã tăng lên gấp bội khi anh nói:
“Từ
hồi mình biết Chúa mình ít uống rượu hơn, gia đình vui hơn, mình làm
việc tốt hơn, bây giờ cũng còn uống rượu nhưng nó đỡ hơn rồi, mình
biết đọc kinh, biết chia sẻ Lời Chúa cho bà con, trong làng ai cũng vui
vì có chỗ để nói chuyện. Anh chị em mình sống tốt hơn, biết cầu
nguyện và xin Chúa giúp. Mình biết Chúa thương mình, mình nghèo Chúa
cũng thương, Chúa thương người nghèo lắm… nhờ biết Chúa mà bà con
trong làng biết sống tốt, đùm bọc lẫn nhau… Có mấy người biểu mình
bỏ Chúa đi, mình nói: ‘Làm sao mà bỏ nó được, mình tin nó ở trong
lòng mình rồi, nó ở trong đầu mình rồi làm sao mà mổ nó ra rồi bỏ
nó đi được, không bỏ nó được đâu…”.
Tối hôm ấy,
anh em cứ ngồi rỉ rả với nhau, chúng tôi nghe được nhiều câu chuyện
và có được những bài học của niềm tin, tôi bắt đầu học biết hạnh
phúc khi được là người nghèo của Thiên Chúa.
Sr. Madalena Hiếu Thảo-Rndm