Đối với tôi, Thời
gian 3 tuần chưa phải là lí tưởng cho một đợt thực tế, nhưng không vì thế mà
tôi không tích lũy được cho mình những kinh nghiệm của cuộc sống thực tại và đời
sống thiêng liêng. Ba tuần sống trong làng Ngai Ngó – Gia Lai, được ở lại và
chia sẻ cuộc sống chung với dân làng, họ đã dạy tôi không chỉ là những bài học
thông thường nhưng là những bài học vô giá.
Tôi lên đường
và tự tin với những kiến thức mình có thể mang đến cho những đứa trẻ ở đó. Thế
nhưng, tôi đã kinh nghiệm sự bất lực khi những kiến thức của tôi không thể truyền
tải cho các em và việc học làm các em cảm thấy vô cùng áp lực. Theo cảm nhận của
tôi về anh chị em nơi đây là họ cảm thấy vui và hạnh phúc khi được làm những điều
mình yêu thích và cuộc sống với họ như vậy mới thực sự là sống. Tôi nhận thấy rằng
đôi lúc mình đang áp đặt họ theo cuộc sống của mình, theo quan điểm của mình,
theo cách suy nghĩ của phần lớn xã hội; để rồi quên mất rằng đâu mới thực sự là
điều họ cần và đâu mới thực sự là điều họ muốn.
Một ngày, khi
tôi đang dạy học cho Hrưn, là con gái lớn của Mị Đưm, chủ nhà mà chúng tôi ở
khi vào làng, trong khi hai cô trò đang rất căng thẳng vì bài khó tiếp thu thì
đứa em gái là Đưm đi làm rẫy về, gương mặt toát lên niềm hạnh phúc với nụ cười
vui tươi, hớn hở. Chính nụ cười đó làm tôi suy nghĩ. Chúng ta có thể giúp cho họ
thăng tiến, đương nhiên là dạy cho họ những điều thật cần thiết trong cuộc sống,
nhưng có nhất thiết là phải nhồi nhét cho họ những kiến thức, những điều mà họ
không muốn tiếp thu, những điều làm thay đổi bản chất văn hóa của họ? Có lẽ đây
vẫn là vấn đề còn cần nhiều thời gian và sự khôn ngoan để suy xét lại. Và chính
trong sự bất lực đó, tôi đã nghiệm thấy mình chạm được vào sự khó nghèo của
Chúa Giê-su. Tôi thấy mình thực sự chẳng có gì để tự hào, để bám víu mà chỉ còn
biết phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Một kinh nghiệm
khác đến với tôi trong một lần đi bắt cua vào buổi tối. Trời tối như mực, đường
làng vắng vẻ, nhưng mấy đứa học trò cứ rủ các cô đi bắt cua cho bằng được và
luôn miệng khẳng định rằng chắc chắn sẽ rất an toàn. Chúng tôi ra đi mà lòng
không ngớt lo âu. Tôi phải luôn miệng nhắc các em đi gần nhau, không tách ra vì
sợ bị bắt cóc, sợ rắn rết, sợ ma, nói chung là sợ đủ thứ. Dù việc bắt được cua
làm tôi và các em rất phấn khởi nhưng trong lòng tôi vẫn lo sợ, vẫn phải để mắt
trông các em dù chẳng còn nhìn thấy đứa nào ra đứa nào vì trời quá tối. Cho đến
khi tất cả đã về nhà an toàn thì nỗi lo trong lòng tôi mới thực sự được giải tỏa.
Thế nhưng, nó lại làm tôi suy nghĩ. Tôi đến đây và mang theo quan điểm của tôi,
mang theo quan điểm của xã hội ngoài kia, mang theo thực trạng của xã hội bấy
giờ,… nhưng hầu như là chúng không thể áp dụng cho đời sống ở đây. Làng Ngai
Ngó, tối ngủ họ vẫn mở cửa, xe vẫn dựng bên ngoài mà không khóa cổ xe, trẻ con
vẫn đi ra ngoài vào buổi tối mà không có người lớn đi cùng. Chính vì thế đến với
họ trước tiên phải mang vào mình những tập tục và thói quen sống của họ chứ
không phải bắt họ sống theo quan điểm của tôi.
Tôi cũng nhận
ra một điều rằng, tôi đi vào cuộc sống của Chúa Giê-su mà còn mang quá nhiều
con người cũ của mình. Tôi đã mang theo sự nhát đảm, quá khứ sợ hãi, kinh nghiệm
mất mát,… để rồi tôi thiếu lòng tin vào Chúa và vào chính tôi. Mô-sê bước vào đất
thánh và ông phải cởi dép. Tôi có thể cũng đã tìm thấy kho báu và viên ngọc quý
nhưng tôi chưa thực sự tin rằng chúng là những thứ quý nhất. Vậy nên, tôi chưa
can đảm đánh đổi và phó thác cho Chúa cuộc sống của tôi. Sau tất cả những điều
này, tôi nhận thấy những bài học giá trị luôn hiện hữu trong cuộc sống của tôi,
điều quan trọng là tôi có can đảm đón lấy nó và đối diện với chính mình hay
không.
Tạ ơn Chúa vì
ba tuần thực tập bình an và ý nghĩa. Có một điều tôi tin chắc rằng những kinh
nghiệm tôi rút ra được trong kỳ thực tế này chắc chắn sẽ là những động lực có sức
ảnh hưởng, và thúc đẩy tôi tiến bước trên hành trình theo sát Chúa Giê-su.
Teresa Phương Thùy- Tập sinh
Dòng Đức
Bà Truyền Giáo