Trong khi ấy các chị em làm
việc như những người nô lệ để kiếm sống. Mọi tấc đất trong vườn đều được tận
dụng trồng rau để có thức ăn; họ may vá và giặt thuê với đồng lương rẻ mạt vì
sự biến động của thị trường; các chị em được chuẩn bị để làm bất cứ công việc
gì để có thể kiếm được vài đồng xu.
Cộng
đoàn lúc này có 30 người. Một ngày kia, trong sự tuyệt vọng, các chị em và Cha
Philpin có một kế hoạch mới và táo bạo, họ sẽ sai hai Srs đến Anh ngay để dọn
đường cho cả cộng đoàn. Họ không có tiền và không biết gì về nước Anh, chỉ biết
đó là một thành phố lớn nhất trên thế giới, và giữa các chị em không ai biết
tiếng Anh. Đó là một kế hoạch điên rồ nhưng nếu không thực hiện, cả cộng đoàn
không thể nào tồn tại được. Mọi người cầu nguyện cho kế hoạch đặt ra được thành
công.
Cha
Philpin và Mẹ St John phải quyết định xem hai chị em nào sẽ được sai đi. Người
đầu tiên được chọn là Mẹ St Raphael. Mẹ lớn tuổi, có kinh nghiệm và điềm tĩnh.
Người thứ hai là Euphrasie, Sr trẻ Marie, người vừa mới khấn lần đầu.
“Ôi, chị
Marie, chị may mắn quá! Một
trong các Srs trẻ kêu lên. “Chị là người đầu tiên trong số chúng ta được đi
truyền giáo! Chắc là chị vui sướng lắm!”
“Nhưng đó không phải là một
sứ vụ hải ngoại thật sự,” người khác phản đối. “Đó chỉ là Luân đôn thôi.”
“Nhưng đó là sự khởi đầu,”
chị đầu tiên tranh cãi.
“Em thích được đi Anh”, chị
thứ ba nói. “Đó là một nơi tồi tệ và nguy hiểm. Những người Công giáo bị bách
hại ở Anh. Chị có thể chết cho niềm tin của mình, hoặc bị bỏ tù đến hết đời.”
Sr Marie mĩm cười.
“Là một Kitô hữu không còn là
một việc bất hợp pháp ở Anh lúc này đâu,” Sr nói, “nhưng sẽ không thoải mái khi
sống ở một đất nước nơi mà hầu hết người dân không thích người Công giáo.”
“Vâng, em cũng thấy không
được an toàn,” chị phản đối nói tiếp. “Dù sao đi nữa em không thích người Anh.”
Sr Marie lại mĩm cười.
“Chị có biết người Anh nào
không?” Sr hỏi. “Không, nhưng em không bao giờ thích người Anh. Có vẻ buồn cười
đấy, em thường nói với Chúa là, “Con sẽ là một nhà truyền giáo cho Chúa bất cứ
nơi nào, nhưng không phải ở Anh.” Em tự hỏi vì sao vậy. Có lẽ vì những câu
chuyện kể của bố về các cuộc chiến tranh và về Hoàng đế Napoleon của chúng ta;
Ông nội của em là một người lính và ông đã chiến đấu cho nước Pháp.”
Một giọng khác cắt ngang,
“Mẹ St John nói rằng nước Anh
là một nơi tốt nhất để chúng ta bắt đầu. Mỗi ngày các tàu thủy nhổ neo từ Luân
đôn để buôn bán và lập thuộc địa trên toàn thế giới: Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Ấn độ
và các nước phía Đông, những hòn đảo nhiệt đới của Châu đại dương. Chúng ta có
thể học tiếng Anh ở Luân đôn và chúng ta có thể đi khắp nơi trên thế giới.
Mẹ St John nhẹ nhàng cắt
ngang
“Sr Marie, đến đây nào,” mẹ
nói, “chúng ta có nhiều việc để làm; con và Mẹ St Raphael cần tĩnh tâm và khấn
lại. Và các chị em, chúng ta phải cầu nguyện và chuẩn bị. Những người còn lại
sẽ sớm đi theo hai người chị em yêu quý của chúng ta, nếu đó là điều Chúa
muốn.”
Đúng như vậy, là một Kitô hữu
không còn là việc bất hợp pháp ở Anh nữa, nhưng vẫn còn rất nhiều cuồng tín.
Chỉ vài tháng trước đây, lần đầu tiên sau 300 năm, Đức Giáo hoàng bổ nhiệm Đức
tân Giám mục của nước Anh, ngay lập tức đã có sự bùng nổ của những sự phản
kháng chống Công giáo.
Mẹ Raphael và Euphrasie đến
chào cha tuyên úy. Cha Philpin khuyên hai Srs phải hết sức cẩn trọng trong khi
tìm hiểu tình hình.
“Cha khuyên hai chị phải ăn
mặc kín đáo. Phải chứng tỏ hai chị là những gia sư người Pháp đang tìm học trò.
Đừng để người ta biết các chị là những nữ tu, điều đó sẽ rất nguy hiểm.”
Cha lục ở ngăn trên cùng của
bàn làm việc và lấy ra một bức thư đã niêm phong.
“Cha có cái này và nó sẽ giúp
hai chị, đây là một lá thư gửi cho một người đàn ông người Anh mà cha từng
quen. Ngài được đào tạo ở Chủng viện tại Pháp nhiều năm trước đây, và bây giờ
là một cha xứ ở một nơi nào đó tại Luân đôn.
“Tuy vậy, đừng đến chỗ cha
này, trừ khi hai chị không còn cách nào khác. Cha được biết là gần đây ngài có
gặp khó khăn, những kẻ phá hoại đột nhập vào nhà thờ của ngài và ngược đãi ngài
trên đường.”
Cha lắc đầu buồn bã; ngài
muốn giúp đỡ và khích lệ nhưng ngài không thể bỏ qua cảm giác rằng ngài có thể
sai hai người bạn trẻ này đến chỗ chết.
Ngài gượng cười cách vui tươi
và hy vọng.
“Bây giờ, các con yêu quý,
hãy ra đi với phúc lành của cha.”
Euphrasie và Mẹ St Raphael
quỳ gối khi cha ban phép lành cho hai chị. Lòng tràn ngập nỗi đau buồn, cha đỡ
hai chị đứng lên và đưa họ ra cửa.
“Chỉ có Chúa biết khi nào cha
mới gặp lại các con,” cha thầm thì. “Xin Người ở với các con luôn mãi!”
Khi họ quay đi, Euphrasie
nhìn thấy cha Philpin lén chùi nước mắt.
Mẹ St Rapahel và Sr Marie đã
sẵn sàng lên đường. Mẹ St John cùng đi để giúp hai chị ổn định cách an toàn ở
Luân đôn.
Nghe theo lời khuyên của Cha
Philpin, hai chị gói cất cẩn thận tu phục và voan của mình và chỉ mặc áo dài
trơn màu đen. Với những chiếc mũ giản dị, khăn choàng và áo khoác, trông họ
đúng là hình ảnh của một phụ nữ nghèo, có học. Một người bạn của Cha Philpin
cho họ tên của một gia đình người Pháp đứng đắn, Morels, gia đình này đã định
cư ở Anh nhiều năm. Họ quyết định sẽ đến gia đình này trước, nhưng không nói
nhiều về bản thân mình.
Cả ba người đi đến miền
tây-bắc bằng tàu và xe ngựa. Miền quê đã phô bày những dấu hiệu của mùa xuân,
nhưng họ đến bờ biển vào một ngày tháng ba lạnh lẽo và ảm đạm. Gió rét buốt dữ
dội khi họ lên tàu đi Anh.
Euphrasie nhớ lại những câu
chuyện của bố về những thuyền buồm lướt trên biển xanh nhiệt đới. Con tàu nhỏ
củ kỹ đâm đầu theo hướng đi xuyên qua dòng nước xám đen cuồn cuộn. Khi nước
dâng lên và nhỏ xuống dưới chân, Euphrasie bắt đầu cảm thấy khó chịu trong
bụng. Những hành khách tội nghiệp túm tụm vào nhau ở chiếc ghế dài hay gục đầu,
bám chặt tay vào thanh vịn. Hầu như ai cũng im lặng và mặt tái xanh. Một số
người khép kín kia phải là người Anh, Sr nghĩ, nhưng Sr không còn để ý đến việc
đó nữa.
Một người đàn ông kế bên đang
tranh cãi với vợ; họ là người Pháp và Euphrasie không thể không nghe thấy:
“Vô lý, em à, đây là một
chuyến đi tốt đấy! Em có còn nhớ lần đầu tiên mình đi kinh khủng thế nào không,
có nhớ mình bị trượt trên sàn tàu ướt và em phải…”
Người đàn bà tội nghiệp rên
rỉ và lôi ra một chiếc khăn tay lớn.
Mẹ Raphael vỗ vào áo choàng
của Euphrasie.
“Xuống dưới này đi,” mẹ nói.
“Trời sẽ tối nhanh và những người có phòng đã nghỉ rồi. Hãy nằm xuống và nghỉ;
nếu ngủ được chúng ta sẽ khỏe hơn.”
Đúng là có dễ chịu hơn nhiều
khi nằm duỗi thẳng lưng, nhưng dẫu vậy, đêm ấy vẫn là một đêm khốn khổ. Có
những lúc Euphrasie cảm thấy rất yếu, Sr lờ mờ tự hỏi không biết mình có còn
sống để trở thành nhà truyền giáo không. Sự khổ sở khi phải đi trên chiếc tàu
nhấp nhô này làm các chị không còn nhớ đến nỗi đau rời xa quê và nước Pháp.
Hai Sr đã lên sàn tàu từ sáng
sớm. Biển vẫn còn động và xám xịt. Sự chuyển động của con tàu không còn gây
buồn nôn nữa nhưng họ không dám đi xuống dưới lấy nước nóng uống. Họ cảm thấy
an toàn hơn khi đứng ở nơi có khí trong lành, nắm lấy thanh vịn và theo dõi con
tàu tiến dần đến bờ.
Họ đến thị xã Newhaven trước,
không phải Luân đôn. Khi con tàu cập bến, Euphrasie quan sát những hoạt động
tấp nập trên boong tàu và ở bờ biển.
Lạ thật, nước Anh xa xôi này
cũng chẳng khác gì so với nước Pháp. Nhà cửa, đường phố, xe cộ, con người,
người giàu sang hay kẻ nghèo khó, những người đang làm việc hay đang chờ đợi,
đang rao hàng hay bước đi cách nặng nề mệt nhọc vì những vấn đề riêng của họ.
Mọi sự có vẻ bình thường cách ngạc nhiên. Euphrasie thấy mọi sự có vẻ quen
thuộc, ngoại trừ ngôn ngữ. Họ nói những chuyện bình thường, Sr chắc chắn, nhưng
ngôn ngữ thì nghe hơi lạ, giọng khàn khàn, nhỏ, ngắt quãng, không ngọt ngào và
đậm đà như tiếng Pháp, không trầm và dịu dàng và có âm cổ như tiếng Đức mà có
lần Sr nghe được. Làm sao người ta có thể học để hiểu và nói loại ngôn ngữ lạ
lùng như vậy?
Khi hai Srs dẫm lên tấm ván
để bước xuống tàu. Euphrasie cảm thấy sàn tàu như đang nhấp nhô dưới chân, mấy
hòn sỏi trên đường cũng vậy. Vài giây sau Sr nhận ra rằng mình bị chóng mặt chứ
không phải nước Anh đang có cơn động đất nhẹ.
Hai chị lên đường đến một ga
xe lửa gần đó. Mẹ St John lo lắng ôn lại vốn tiếng Anh mẹ học trước kia, lúc ấy
mẹ không bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày mẹ sống đơn độc nơi đất nước xa lạ này.
Họ tìm ra nhà của ông bà
Morel ở vùng ngoại ô Marylebone. Một phụ nữ thấp, mập mạp với khuôn mặt tròn,
ăn mặc gọn gàng và dáng vẻ nhanh nhẹn ra mở cửa. Đó là bà Morel. Thật thoải mái
khi họ chào nhau bằng tiếng Pháp! Bà Morel tươi cười; bà không biết tí nào về
những vị khách này nhưng vui vẻ đón tiếp họ vì lời giới thiệu của một người bạn
tốt; bà rất tử tế đối với ba người phụ nữ Pháp hiền lành đến nhà bà để được tư
vấn.
“Một căn hộ hay là một căn
nhà thưa bà?” bà Morel hỏi Mẹ St John. “Tôi sẽ để các cháu của bà sử dụng mấy
phòng trên lầu trong khi họ tìm hiểu xung quanh. Vùng này tương đối tốt và có
vài gia đình người Pháp sống gần đây. Có một ngôi nhà nguyện nhỏ ở góc đường có
tên “Nhà nguyện Pháp” vì có nhiều người Pháp đến tham dự thánh lễ ở đó.”
Bà nói luôn miệng khi chúng
tôi lên tầng trên:
“Các chị có biết là có vài
gia đình người Pháp sống ở đấy đến 60 năm rồi không? Một số gia đình bỏ chạy
sang Anh để tránh những hình phạt thời Cách mạng. Và họ vẫn còn là người
Pháp, tôi có ý nói là những người lớn tuổi, không phải là những người
trẻ… ồ, người trẻ…!”
Các căn phòng thì nhỏ và
trống rỗng nhưng sạch bóng. Mẹ St John nôn nóng muốn giải quyết công việc cách
nhanh chóng; Mẹ trả tiền thuê phòng khi hai Sr đặt hành lý xuống. Mẹ vội vã trở
lại ga xe lửa để về Pháp. Chuyến đi mất hết một tuần bằng đường bộ, đường ray
và đường thủy, và Mẹ cảm thấy lo lắng khi trở về Cuves. Dốc hết tiền trong ví
ra, Mẹ chỉ lấy vừa đủ số tiền cho chuyến về, và để lại tất cả cho hai nhà
truyền giáo mới. Một sự nghèo túng đến tội nghiệp.
Mẹ St John vừa mới đi thì có
tiếng gõ cửa. Euphrasie và Mẹ St Raphael giật nảy mình lo lắng; họ nhìn nhau và
cả hai cùng đứng lên mở cửa. Họ thở phào khi thấy khuôn mặt quen thuộc vui
tươi: Bà Morel trở lại giới thiệu họ với một người bạn, một phụ nữ người Pháp,
bà Lecomte người có hàng bánh kẹo gần bên. Cao và gầy, bà Lecomte cũng tử tế
như bà Morel.
Bà rất vui khi biết hai người
mới đến rất giỏi về may vá.
“Có thể các chị chưa có học
trò ngay,” bà nói “đặc biệt là các chị không nói được tiếng Anh, nhưng tôi có
thể giúp các chị tìm vài việc may vá và trong thời gian chờ đợi.”
Khi người khách đi rồi, hai
Srs đóng cửa lại và bắt đầu soạn đồ đạc ra. Hai chị cố gắng biến căn phòng
trống rỗng trở thành một mái ấm; sắp xếp đồ đạc mượn được và dọn giường, treo
tượng chịu nạn và một số ảnh thánh lên tường ở phòng khách nhỏ; hai thùng nhỏ
để ở phòng ngủ được dùng để đựng đồ. Khi mọi sự đã được sắp xếp ngăn nắp, hai
chị cùng nhau cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng, như các Srs đang làm ở
Cuves.
Bà Lecomte là người biết giữ
lời hứa, và khi hàng đặt đầu tiên đến thì hai Srs làm việc cả ngày. Đây không
phải là công việc được trả lương hậu hĩ. Máy may vẫn còn khan hiếm và đắt nên
hầu hết các thợ may và các tiệm thuê phụ nữ, và trả lương cho họ theo số lượng
sản phẩm làm ra, họ làm bằng tay và làm tại nhà. Họ làm việc hàng giờ, may
những đường nối dài và đường viền, hàng thước vải trơn màu tối. Có quá nhiều
phụ nữ cần có công việc để kiếm chút tiền, vì thế những người chủ đòi hỏi đường
may phải thanh với một giá rất thấp. Công việc này thường hại cho mắt và sức
khỏe vì phụ nữ và các cô gái trẻ thường khom người hàng giờ để may, thỉnh
thoảng phải làm việc dưới ngọn nến lờ mờ đến tận đêm.
(Xin xem bài đăng tiếp theo CHƯƠNG IV-PHẦN 1: Năm….)
Biên soạn bản tiếng Anh:
Sr. Mary Philippa Reed - RNDM
Dịch thuật: Sr. Agata Nguyễn Thị Phượng Linh - RNDM