Vài tuần sau, khi Mẹ Euphrasie đến, các sơ đã thuê hai
căn nhà nhỏ và bắt đầu công việc. Lúc này, giáo xứ bắt đầu gây quỹ để xây dựng
một tu viện. Từ Auckland, ĐC Luck đích thân đến để chủ sự nghi thức đặt viên đá
đầu tiên. Sau đó, ngài đưa Mẹ Euphrasie đến địa điểm mà ngài đã chọn để xây dựng
cơ sở tiếp theo. Đó là một thị trấn miền quê rất nhỏ có tên Pukekohe, nằm giữa
Hamilton và Auckland. Mặc dù Pukekohe chỉ có khoảng hai mươi gia đình Công
giáo, nó là trung tâm của một giáo xứ miền quê rộng lớn với các thánh lễ nằm rải
rác trong bán kính ba mươi dặm. Đức Cha đã cho Mẹ Euphrasie vài mẫu đất tốt gần
nhà thờ, và thời điểm mẹ rời Pukekohe để chuẩn bị nhân sự và tài chánh cho cơ sở
mới, Cha Costello và các giáo dân của ngài đã bắt đầu công việc. Họ dự định chuẩn
bị sẵn một căn nhà khang trang cho các sơ để họ bắt đầu sứ vụ.
Trong vòng vài tuần, các sơ đã sẵn sàng lên đường. Mẹ
Euphrasie gửi điện báo cho Cha Costello biết mẹ và cộng đoàn đang trên đường đến
giáo xứ của ngài. Các sơ di chuyển bằng đường sắt xuyên qua Đảo phía Bắc, khi
xuống tàu tại Pukekohe, sáu sơ nhận thấy mình đang đứng ở một vùng đất hoang
vu. Màn đêm đã buông xuống; nhà ga, một nhà kho đơn độc trong đống rác bẩn thỉu,
chìm trong bóng tối. Mùa đông đã bắt đầu, một cơn mưa lạnh trút xuống, khiến những
kẻ lữ hành ướt sũng, và biến con đường đất thành vũng lầy. Xung quanh không một
bóng người. Một vài ánh sáng yếu ớt từ xa là hướng dẫn duy nhất của họ. Khổ sở
với những thùng hành lý nặng nề, các sơ phủ chiếc áo choàng dài trên đầu và bắt
đầu di chuyển, vấp ngã và lội lõm bõm trong bùn và nước mưa. Lạnh và mệt, các
sơ bối rối và rất khổ sở, họ lo sợ không thể bước đi trong bóng tối. Cứ sau vài
bước họ phải dừng lại để nghỉ ngơi.
"Cầu nguyện, các chị em, hãy cầu nguyện!" Mẹ
Euphrasie kêu lên với giọng vui vẻ; “Hãy cầu xin Thánh Giuse gửi một loại
phương tiện nào đó để giúp chúng ta.”
Khi đi thêm vài bước nữa, các sơ rì rầm trong thất vọng
“Kính mừng Maria…”. Đôi ủng ướt khiến chân họ lạnh hơn, những giọt nước lạnh chảy
xuống cổ và người. Khi bị ngã cạnh một hàng rào, một biểu tượng của sự an toàn
của nền văn minh ở đất nước này, các sơ thấy một bóng người bước ra con đường
phía trước họ. Họ cất tiếng chào và anh ta lại gần, thoáng nghi ngờ về những
người lạ trong bóng đêm. Anh trả lời câu hỏi của các sơ và chỉ đường cho họ.
"Có cách nào để có một chiếc xe không --- một chiếc
taxi?" Mẹ Euphrasie hỏi. "Chúng tôi đã mệt và có quá nhiều thứ để
mang theo."
“Một chiếc taxi? Không, không thể vào lúc đêm hôm thế
này, ”anh ta cộc cằn trả lời . “Chờ ở đây --- Tôi sẽ giúp một tay --- Tôi sẽ
đưa các chị đi,” anh nói, và quay vào bóng tối nơi anh vừa xuất hiện.
Một lúc sau anh trở lại, họ nghe thấy tiếng thở hổn hển,
tiếng soàn soạt và lạo xạo. Anh ta mang theo một chiếc xe, một chiếc xe cút kít
lớn bằng gỗ. Bánh xe đang cày xuyên qua bùn và cào trên lớp sỏi bên dưới phần đất
nhão.
“Đặt những thùng lớn lên --- những thùng nặng nhất,” anh
ra lệnh. "Hãy đi theo tôi."
Các sơ nhận ra rằng anh không phải là người nói nhiều,
nhưng không phải là người không thân thiện. Anh biết nhà thờ Công giáo; bản
thân anh là một người Công giáo (có lẽ là không mặn mà gì cho lắm với nhà thờ);
anh ấy biết chỗ ở của các sơ.
"Có ánh đèn, thưa mẹ!" ai đó thì thầm, và tinh
thần của họ phấn chấn khi ánh sáng đến gần. Hình như họ đã đi bộ khoảng một dặm
--- trong bóng tối, đó là một khoảng cách dường như vô tận --- trước khi họ có
thể phân biệt những ngôi nhà phía trước.
Người dẫn đường đưa các sơ đến một ngôi nhà đang chìm
trong bóng đêm. Sau khi thử mở các cánh cửa cách vô vọng, anh ta đến nhà hàng
xóm. Các sơ run rẩy đứng dưới mái hiên. Anh ta quay lại, vẫn không có chìa
khóa.
“Ngôi nhà chưa hoàn tất, nhưng chúng ta có thể vào được,”
anh nói, và đi tới cánh cửa sờ soạng. Một
vài khối gỗ rơi lộp độp trong bóng tối và anh mở tung cánh cửa. Các sơ cảm ơn
lòng tốt của anh, nhưng anh chưa thể rời bỏ họ. Đánh một que diêm lên, anh đưa
các sơ vào một căn phòng trống; và mang những thùng hành lý từ xe cút kít vào.
Anh bật thêm một vài que diêm nữa và thấy một lò sưởi với
những mảnh gỗ vụn nằm xung quanh sàn nhà. Vị ân nhân của các sơ nhóm lò sưởi.
Sau đó anh ta biến mất không một lời tạm biệt.
“Chúng ta chưa cảm ơn anh ấy hẳn hoi --- và anh ấy chính
là Thánh Giuse, người trợ giúp của chúng ta!” một sơ tiếc nuối nói. Trong ánh
sáng bập bùng của ngọn lửa, họ bắt đầu lần mò mở các thùng hành lý, tìm kiếm những
thứ họ cần nhất.
“Đây là cái chảo,” một người nói. “Bánh mì đây!” một người
khác kêu lên.
Có tiếng gõ cửa mạnh. Giật mình, tất cả quay lại nhìn khi
cánh cửa mở. ‘Thánh Giuse’ của họ đã trở lại, phía sau anh ta là một người đàn
ông khác với một chiếc bao tải trên vai, và một người phụ nữ trùm đầu để che
mưa. Người phụ nữ bị đẩy lên phía trước.
“Chúc tụng Chúa! Các sơ đến đây bằng cách nào vậy, thưa
các sơ?" cô ấy kêu lên, chìa tay về phía các sơ. “Và Cha Costello sẽ nói
gì? ... ngài không có ở đây lúc này ... và chúng tôi không biết ... nhưng chúng
tôi có một vài thứ cho các sơ ... nhìn kìa các sơ ướt sũng rồi! "
Những người khách đã mang theo những thứ quý giá --- vài
cái tách, một hoặc hai cái đĩa, một vài cái thìa và dao, một ít trà gói trong
giấy, một ít đường, và một chút thịt xông khói và xúc xích. Những thứ này sẽ
giúp các sơ đỡ hơn cho đến khi trời sáng.
"Bọn trẻ đang đến, chúng sẽ mang thêm nhiều thứ nữa!"
Người phụ nữ nhỏ bé hoạt bát thốt lên, và cô ấy tự giới thiệu mình và chồng. Họ
là những người hàng xóm, những giáo dân, và là những người bạn tốt của Cha
Costello.
Tiếng thình thịch của các đôi ủng nặng giẫm lên hiên nhà
thông báo sự xuất hiện của các cậu bé, những đứa con trai cao lớn của gia đình.
Theo sự chỉ dẫn của người mẹ, chúng kéo lên một chiếc bàn nhỏ, ba chiếc ghế cũ
và hai tấm nệm lớn cũ nát.
“Không có gì nhiều ... tôi xin lỗi vì chúng tôi không có
hơn ... trời ơi, Cha Costello sẽ nói gì? nhưng chúng tôi không biết là các sơ sẽ
đến...! ” người phụ nữ liên tục nói và vặn tay.
Mẹ Euphrasie cảm ơn họ hết lần này đến lần khác --- mẹ
nghĩ rằng tại nhà riêng của họ chắc cũng không có gì nhiều. Cuối cùng, mẹ tiễn
họ ra cửa, họ lại tiếp tục xin lỗi vì sự thiếu chuẩn bị của mình.
Cuối cùng khi chỉ
còn một mình, các sơ nhanh chóng vào việc. Trong khi củi được chêm thêm vào bếp,
và một số thịt xông khói và xúc xích đang chảy xèo xèo trên chảo, căn phòng được
tạm sắp xếp. Những tấm áo choàng ướt được phủ lên cửa sổ trần và thức ăn được
bày trên bàn. Với một que củi cháy như ngọn đuốc, một sơ thăm dò căn phòng bên
cạnh và quay lại với một số tấm ván ngắn dùng làm ghế ngồi. Một ngọn nến được
thắp lên soi sáng cả căn phòng. Bánh mì được cắt ra và bữa ăn bắt đầu.
Mọi người dừng lại tạ ơn và sau đó đứng hoặc ngồi lặng lẽ
dùng bữa. Các sơ cho thêm rác vào bếp để sưởi ấm suốt đêm, và dọn chỗ để đặt
các tấm đệm. Họ thổi tắt ngọn nến --- nó quá quý để lãng phí --- và bên ánh
sáng ấm áp dịu nhẹ của ngọn lửa, họ bắt đầu chuẩn bị giường. Mẹ Euphrasie chuẩn
bị chỗ nghĩ của mình trên sàn và không muốn chuyển đi nơi khác.
“Không đâu, những tấm đệm đó chỉ vừa đủ cho các sơ thôi,”
mẹ nói, “và các sơ phải có một đêm ngon giấc; các sơ còn trẻ --- ngày mai các
sơ sẽ phải làm việc vất vả hơn mẹ rất nhiều. ”
Các sơ biết rằng tranh luận với mẹ là vô ích. Mẹ Tổng quyền
giảng dạy về sự nghèo khó thánh thiện và sự khắc khổ nhưng mẹ luôn nhấn mạnh rằng
các nữ tu phải có những gì cần thiết cho sức khỏe của họ. Quần áo và giày của mẹ
được sửa đi sửa lại nhiều lần, gần như đến mức vô lý, một số người nghĩ. Một lần
kia, chỉ một lần --- và mọi người cười khúc khích vì câu chuyện cũ này của Sơ
Ethelburga --- mẹ đáng kính bị đánh lừa. Cả hai đến Paris lo công việc khi thời
tiết rất xấu. Một người bạn khá giả đã đưa các sơ vào một cửa hàng và đòi mua
cho mẹ đáng kính một đôi giày tử tế. Khi họ vừa rời cửa tiệm, Mẹ Euphrasie thì
thầm với người bạn đồng hành của mình, "Hãy nhặt lại đôi giày cũ cho mẹ
--- Mẹ có thể mang nó trong nhà."
Sơ Ethelburga vâng lời làm theo, và giấu đôi giày hư dưới
lớp áo choàng của sơ. Nửa giờ sau, khi họ đi qua cây cầu bắc qua sông Seine, Sơ
Ethelburga lùi lại phía sau Mẹ Euphrasie một chút và ném đôi giày cũ qua đường
ray xuống dòng nước cuồn cuộn bên dưới. Sơ Ethelburga hiếm khi cười, nhưng mỗi
khi kể câu chuyện đôi giày ‘bị mất’ sơ phải cố nhịn cười đến nỗi khuôn mặt của
sơ nhăn nhúm lại và đôi vai thì rung lên, và các sơ không thể không cười với sơ
ấy.
Vì thế các sơ không phản đối, họ lấy đồ đạc trong giỏ ra,
không để ý đến mùn cưa và các mảnh vụn trên sàn gỗ thô, và tìm quần áo khô để mặc
vào. Những bộ tu phục ướt đã được treo lên, vắt tạm lên ghế, bàn và các tấm
ván. Các sơ đồng ý giữ bếp lửa suốt đêm, cuối cùng họ nằm xuống ngủ. Mọi thứ đều
lạ lẫm và khó chịu nhưng họ không thể mở mắt ra được.
Biên
soạn bản tiếng Anh: Sr. Mary Philippa Reed - RNDM
Dịch
thuật: Sr. Agata Phượng Linh - RNDM