1872: Ra
Nước Ngoài
Một nhóm các nhà truyền giáo Dòng Marist
sẽ rời Pháp vào tháng 10, đi cùng Đức Cha Bataillon, Giám mục của Châu Đại
Dương và một nhóm lớn các nhà truyền giáo Pháp đi đến các điểm tại Châu Phi và
phía Đông.
Mẹ Euphrasie
lấy giờ chuẩn bị chính mình cho giai đoạn tới. Mẹ trao đổi với cha Bruno, vị
đồng hành thiêng liêng. Trong cuốn sổ tay, mẹ viết những quyết tâm cá nhân cho
tương lai gần. Những điều này không giống những gì mẹ thường làm, vì đã từ lâu
mẹ là người theo dõi sắc sảo tính cách của chính mình.
1)
Dành nhiều thời gian có thể cho việc cầu
nguyện
2)
Không làm thêm những việc hãm mình – đã
đủ
3)
Từ bỏ chính mình cho Chúa và tiết chế
tính tự nhiên: tính mạnh mẽ, thiếu kiên nhẫn
4)
Ngưng mọi việc tự xét nội tâm – quên mình trong Chúa
Khi
nhóm truyền giáo mới đón tàu ở Marseilles, mẹ Euphrasie
cũng ở đó. Các Sơ Hilary và Mary Thiên Thần đi đảo
Wallis, một tập sinh là em Mary Nazareth đi Tân Tây Lan với mẹ Euphrasie.
Cả bốn người đi xe lửa về hướng nam đến hải cảng lớn và lên tàu
“Amazon”, một trong những tàu hơi nước tân thời. Các chị ổn
định chỗ ngồi ở một khoang nhỏ, sắp xếp hành lý gọn gàng vào một chỗ chật hẹp.
Khi con tàu rời bến, mẹ Euphrasie
nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ là một người thủy thủ giỏi. Dù đã đi từ
Calais đến Dover nhiều lần, mẹ chưa bao giờ cảm thấy thích thú.
Chuyến đi này
càng tệ hơn gấp ngàn lần. Những hành khách có kinh nghiệm thuyết phục mẹ nằm
xuống, nhưng điều đó chỉ giúp cho mẹ đỡ mệt một chút xíu. Con
thuyền nhấp nhô và đung đưa, và bụng mẹ cũng lên xuống
theo. Đầu mẹ đau như búa bổ.
Những hành khách khỏe hơn khuyên:
“Hãy ăn một tí…bụng chị sẽ đỡ hơn…đừng
ăn gì cả….để cho cái bụng được yên….Đừng ăn, uống thôi….nằm xuống………..Đừng nằm,
đứng lên…..thử cái này…..thử cái kia….”
Những phương thuốc ấy không làm giảm sự
buồn nôn hay cơn nhức đầu của mẹ.
Sau những ngày đêm khốn khổ, con thuyền
dừng ở Cảng Said để lấy than. Hầu hết hành khách lên bờ để duỗi chân, mẹ Euphrasie
thì quá yếu, thậm chí không leo lên boong tàu được. Ở cảng, thỉnh thoảng con
tàu lắc mạnh và kêu lắc cắc, nhưng cuối cùng nó cũng đứng yên. Ngồi ở mép
giường, mẹ Euphrasie lấy bút và giấy ra, bắt đầu viết một lá thư
ngắn cho Nhà Mẹ:
“Các con yêu dấu, chúng ta đang ở trạm
dừng đầu tiên. Mẹ nghĩ, mình không thể viết nhiều, mẹ phải nói rằng các con rất
gần bên mẹ…”
Mẹ kể cho các chị một chút về hàng trăm
hành khách trên tàu. Mẹ thôi thúc các chị cầu nguyện đặc biệt cho các nhà
truyền giáo; nhắc nhở các chị cố gắng đến gần với Chúa cách trung tín. Đặc
biệt, mẹ không hề nói về cơn say tàu liên tục của mình.
Chiếc tàu sớm khởi động lại. Khi đến
Biển Đỏ, cái nóng tột cùng của miền nhiệt đới khiến mọi người càng thêm khó
chịu. Vị thuyền trưởng nhường cho các sơ một khoang tàu.
Dù chỉ có hai người trong khoang, nhưng mẹ Euphrasie cảm
thấy ngột ngạt. Chiếc tàu tròng trành và không khí trong căn phòng nhỏ đông
đặc, nóng như ở trong lò, và càng lúc càng nóng. Mẹ Euphrasie nôn
hàng giờ liền dù bụng rỗng. Các cơn suyễn kéo lên liên
tục, hết cơn này tới cơn khác. Từ bé mẹ đã thường bị xuyễn, nhưng
chưa bao giờ tệ như thế này. Mẹ rên rỉ khi trời đêm quá oi bức: “Nếu không mở
các ô cửa, mẹ nghĩ mẹ sẽ chết.”
Sơ Mary Hilary, cũng bị say sóng kinh khủng, bước đi
loạng choạng. Sơ biết rằng các ô cửa đã được vặn chặt, không thể mở. Sơ loạng
choạng đi ra hành lang nhỏ hẹp.
“Gọi bác sỹ, làm ơn gọi bác sỹ!” Sơ gọi một hành khách
vừa đi qua.
Vài phút sau, bác sỹ đến. Ông thấy mẹ Euphrasie thở
khó nhọc.
“Không khí….làm ơn…. Không khí!”
Không nói một lời, ông quay người và rời khoang tàu.
Bám vào khung cửa, sơ Hilary cố gắng gọi bác sỹ trở lại, nhưng ông đã đi khuất
xuống lối đi tối tăm. Thất vọng, sơ trở về bên cạnh mẹ Euphrasie. Sơ không dám
nhìn; dường như cái chết đã hiện rõ trên khuôn mặt mẹ.
Có tiếng xô đẩy ở ngoài cửa khiến sơ Hilary quay đầu
lại. Một thủy thủ to lớn tay cầm búa và cái tua vít đi vào.
“Lệnh của thuyền trưởng, thưa bà,” anh nói: “mở lỗ
thông ở mạn tàu trong vòng 15 phút, không lâu hơn”.
Vài phút sau, gió biển nóng nhưng trong lành thổi vào.
Sơ Hilary lau mặt mẹ Euphrasie và mặt mình, và ngồi bẹp xuống giường.
Gần như ngay lập tức, người thủy thủ trở lại.
“Phải đóng lại ngay,” anh nói, “Thuyền trưởng ra
lệnh.”
“Ồ, làm ơn, làm ơn để thêm một chốc nữa!” Sơ Hilary
nài nỉ. “Nhìn này, không có một giọt nước nào vào cả. Tuyệt đối an toàn.”
“Vâng thưa bà, chỉ thêm một hai phút nữa thôi,” người
thủy thủ nói. Đến 9 giờ anh mới quay lại, nhưng sau đó không còn cách nào khác
khiến anh trì hoãn.
Vẫn còn một đêm nóng và tĩnh mịch phải trải qua.
Đột nhiên sơ Hilary nảy ra một ý. Bám vào tay vịn cầu
thang, sơ bò lên các bậc thang đến sàn tàu, lúc này không một bóng người. Trong
ánh sáng lờ mờ của một đêm nhiệt đới lặng gió, sơ nhìn thấy điều mình muốn tìm,
một cái ghế mây dài, thấp. Dù yếu mệt, nhưng chiếc ghế đủ nhẹ để sơ nhấc lên
cách dễ dàng. Vần chiếc ghế xuống các bậc thang cách khó khăn, sơ khênh nó
xuống và đặt ở sàn của khoang tàu, trải vài cái đệm và một cái chăn lên trên.
“Mẹ đáng kính!” Sơ khẽ gọi, và mẹ Euphrasie mở mắt
nhìn. “Mẹ ơi, mẹ nằm xuống đây đi,” Sơ mời. Một tay cầm chắc chiếc ghế, tay kia
đỡ mẹ Euphrasie. Khi mẹ Euphrasie nằm xuống chiếc ghế dài, sơ Hilary lấy tấm
thảm trên giường, và quấn chặt quanh người mẹ.
Vài phút sau, sơ tìm được một người phục vụ thân
thiện, họ cùng nhau khiêng mẹ trên chiếc ghế dài lên các bậc thang đến phòng
ăn, và đặt chiếc ghế dài cạnh ô cửa sổ mở lớn nhìn ra boong tàu. Đó không phải
là một đêm dễ chịu, nhưng đối với cả hai, đây là đêm tốt nhất của cuộc hành
trình.
Biên
soạn bản tiếng Anh: Sr. Mary Philippa Reed - RNDM
Dịch
thuật: Sr. Agata Phượng Linh - RNDM