Theo
tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham
gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng
rao giảng Tin Mừng. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những
điều từng được rao giảng tại đây.
Ngài
trở về quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp nơi. Hôm ấy đúng
vào ngày Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh và nghe diễn giảng.
Chúa Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa.
Và
hôm nay, sau bài đọc, như luật cho phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân
chúng không nhận ra Ngài là ai và họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm
Ngài, hiểu lệch lạc về con người của Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy
quyền, như bậc thầy nói với học trò, như một người muốn gây dựng cho mọi người
lòng tín nhiệm nhau để tiến tới tin nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ
truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa
là trước những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét ngạc nhiên, vì họ
thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan,
cao siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và bác Giuse thợ mộc,
bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao có thể đảm nhận chương trình
đại sự của Thiên Chúa được? Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim
cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu
tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau
khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó
là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân
lý của Ngài.
Khác
đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài.
Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa
những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những
câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với
Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường
của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai,
đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái
họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt.
Điều
họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã
đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc
nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Tin Mừng còn ghi lại:
thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài
đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng
xung quanh.
Tin
Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của
Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa
mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông
được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này
chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon
sao?". Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ
Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả. "Người đã không làm phép lạ
nào được".
Có
Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả
Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người
"qua các làng chung quanh mà giảng dạy". Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu
ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối
liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa
người với người.
Hằng
ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội, ta đã bỏ lỡ không tiếp đón
Chúa đến thăm do ta có thành kiến. Đó chính là khi ta bịt mắt không nhìn thấy
những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than
khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt
quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không
nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần
nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người
thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta.
Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán
đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất
là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả
không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì
cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Yêu nên tốt, ghét nên xấu: "Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả
tông chi họ hàng". Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt
chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác
cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành
kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai
thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng
trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên
hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm.
Câu
nói: "Trông mặt mà bắt hình dong" không phải là nguyên tắc chính xác,
nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: "Đừng có xem mặt mà bắt hình
dong". Khổng Tử cũng xác nhận: "Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người
tôi ghét chưa chắc đã xấu". Phong dao cũng có câu: "Người xấu duyên lặn
vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài". Lặn vào thì còn lại,
bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: "Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn","Xanh vỏ mà đỏ lòng". Cho nên, đánh giá một
người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Thành
kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận
ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm
chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được.
Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không
nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người.
Vì
thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự
ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái
nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn,
và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Người Giồng Trôm