Ta tưởng rằng một cuộc sống được lấp đầy
bởi sự nhộn nhịp thì sẽ vui sướng. Nhưng ta lầm, vì lắm khi nó đẩy đưa ta trôi
theo đám đông, mất hút trong những cuộc đua tranh vội vã hay những nhu cầu giả
tạo bề ngoài; và ta không có cơ hội để nhìn lại căn tính hiện diện từ nội tâm của
mình, hay tìm thấy những nền tảng ý nghĩa cho đời sống. Ta tựa như đám lục bình
bị cuốn theo dòng nước, ước được neo đậu vào đâu đó một lúc cũng không xong.Chúng ta tưởng thời Internet lên ngôi thì con người được ngập
tràn hạnh phúc, vì ai cũng có cơ hội chia sẻ, ai cũng có cơ hội trình diện
chính mình cách công khai và dễ dàng được người khác biết đến. Nhưng trong thực
tế, nỗi buồn bã và lo âu có khi lại lấn át cả những niềm vui mình đã tưởng tượng.
Sự soi mói, lên án, chỉ trích của cộng đồng mạng xã hội có thể đổ lên ta bất cứ
lúc nào. Ta cũng có thể trở thành tù nhân từ lối sống ảo của chính mình: nhiều
khi, một bình luận của ai đó trên facebook cũng chi phối đời ta, khiến ta phải
khuôn theo ý muốn của người khác. Có khi họ chẳng có ý gì, thậm chí chẳng thèm
nghĩ về ta, nhưng ta lại hình dung họ đang nghĩ thế này thế nọ, rồi vất vả ép đời
mình phải chạy lòng vòng theo sự tưởng tượng đó.
Vì thế, ta mất phần lớn thời gian để tìm cách khẳng định cái
tôi của mình trong dòng chảy của nhịp sống bon chen này, bằng cách tìm kiếm phần
công nhận và chú ý của người khác cho mỗi hành vi hiện diện của mình. Nhưng vì
ai cũng hối hả chạy theo nhu cầu đó, nên rốt cục chẳng ai thực sự còn giờ giấc
và tâm trí để chú tâm người khác, để công nhận cho ai, chẳng mấy ai thật sự tìm
thấy nét tĩnh tại và an thái với chính sự hiện diện của mình.
Giữa một thế giới náo nhiệt đó, ánh nến Mùa Vọng lặng lẽ nổi
lên như một lời mời gọi dành cho mọi người, nhắc họ về cách hiện diện chân thực
với chính mình. Mùa Vọng, gốc tiếng Latin là adventus, nghĩa là ‘đến’, tức chỉ
về mùa của đợi trông, của hy vọng. Để diễn tả ý nghĩa đó, các nhà thờ thường đặt
bốn ngọn nến, mỗi tuần thắp thêm một ngọn. Ánh nến biểu trưng cho một sự canh
thức, đợi chờ; và ánh nến cũng mời gọi chúng ta đi vào một sự an tĩnh, thinh lặng.
Ánh sáng của ngọn nến sẽ vô nghĩa, nếu nó chỉ để tự soi sáng
và tự khoe chính mình. Khi ngọn nến bắt đầu cháy, thì đó cũng là khởi đầu của sự
tàn lụi nơi chính nó. Nhưng ánh nến Mùa Vọng mang đầy ý nghĩa, vì nó ám chỉ và
báo hiệu sự ngự đến của Đấng là nguồn mọi ánh sáng, Đấng xoa tan đêm tối gian
trần bằng ân sủng bình an và cứu độ. Con người cũng vậy: chúng ta chỉ thấy sự
hiện hữu của mình có ý nghĩa nếu cuộc sống của ta biểu lộ một niềm hy vọng cho
chính mình và cho tha nhân. Đó là niềm hy vọng về một cùng đích nào đó vượt
trên hiện tại của chính mình. Chỉ khi ta cho thấy rằng đời người không chỉ bị
đóng khung hay gói ghém trong những nhu cầu vật chất, mà còn có điều gì đó sâu
hơn nữa, cao hơn nữa, đáng theo đuổi hơn nữa, lúc đó đời ta mới thực sự có
nghĩa.
Ngọn nến Mùa Vọng cũng là biểu tượng cho sự âm thầm, khiêm hạ
và lặng lẽ. Ánh sáng từ ngọn nến không có cường độ lớn và chói chang như ánh
đèn điện, mà dịu dàng và nền nã như ánh trăng. Nhưng chính nét khiêm hạ đó lại
có sức lay động tâm hồn, gợi lên một sự ấm cúng và thâm sâu đến kỳ lạ. Con người
chúng ta cần cảm nếm những khoảnh khắc và không gian lắng đọng, để cảm nghiệm
chiều sâu của cuộc đời này, để thấy ta đang được hiện diện với chính mình. Vì
thế, tựa như ánh nến, chúng ta cần một mức độ âm thầm và khiêm hạ nào đó, để
không chỉ mang lại chiều sâu cho lòng mình, mà còn để sưởi ấm cho tâm hồn tha
nhân nữa.
Các ngọn nến Mùa Vọng không đứng một mình, mà kề cận và cháy
sáng bên nhau. Nếu chỉ cháy sáng một mình, ngọn nến trở nên yếu ớt và thật mong
manh. Nó tự cô lập và có thể bị thổi gió tắt bất cứ lúc nào. Nhưng khi chiếu
sáng kề cận nhau, các ngọn nên trở thành biểu tượng của một tinh thần bất diệt.
Chúng ta cũng vậy. Ơn gọi làm người không phải là để sống một mình, mà là sống
chung với nhau. Chính trong tương quan với tha nhân mà ta thấy rõ hơn chính
mình. Nói theo kiểu triết gia Levinas, chỉ khi chú ý vào tha nhân, đối thoại với
tha nhân, và từ nơi tha nhân mà đời ta được xây dựng, và ta mới có thể biết
mình là ai. Và cũng nhờ đời sống tương quan với tha nhân mà ta có cảm thức khao
khát về một sự quy tụ và kết hợp vĩnh cửu vượt trên tình trạng hiện tại.
Mùa Vọng đã về và Thiên Chúa vẫn đang ngỏ lời với ta ngay giữa
lòng của một cuộc sống đầy ồn ào, náo nhiệt và vội vã. Ngài mời gọi chúng ta đi
vào hiện diện với chính mình, để trong sự hiện diện đó, ta thật sự kinh nghiệm
được mầu nhiệm Nhập Thể, cảm nhận được sự hiện diện đầy sinh động của Con Thiên
Chúa trong lòng ta, lấp đầy những trống vắng và bất định của ta ngay giữa cuộc
sống này. Chính trong sự hiện diện cách tĩnh tại với chính mình đó mà ta mới thấy
mình có những ‘neo đậu’, những bến bờ, để ta không còn quay quắt đi tìm chính mình
một cách vô phương hướng, để cuộc sống này không bị trôi dạt một cách vô ích
hay trở nên trống vắng. Và cũng chỉ trong sự tĩnh tại đó mà ta mới đủ sức để
gánh vác những niềm riêng của mình và của tha nhân trong cuộc hiện hữu đầy mong
manh này.
Ánh nến Mùa Vọng gợi nhắc cho chúng ta con đường để đi vào lối
hiện diện như thế. Giữa một nhịp sống ồn ào, náo nhiệt và vội vã, như ánh nến,
chúng ta cũng cần có những không gian và thời gian nhất định của tinh thần canh
thức, đợi chờ. Tựa những cây nến Mùa Vọng, chúng ta cũng được gọi mời hướng về
tha nhân và chiếu sáng cho họ bằng sức sống và cống hiến của mình. Sự đơn sơ,
khiêm hạ và lặng lẽ của ánh nến cũng là bài học cho chúng ta về những điều kiện
cần thiết để tâm hồn mình có thể đón nhận được mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời,
Đấng vốn đã làm người cách hiền lành, khiêm nhường, được hạ sinh vào thế giới
trong lặng lẽ. Chỉ khi hiện diện như vậy, tâm hồn ta mới đủ lặng và lắng để cảm
nhận sự giao hoà của mầu nhiệm Giáng Sinh, rằng Thiên Chúa đến để ôm ấp con người,
và để con người có thể ôm ấp Thiên Chúa.
Nguồn: