Với một số người, bài viết này sẽ không có gì mới
nhưng chắc chắn nội dung sẽ khiến đa số những người ở độ tuổi 60 trở xuống ngỡ
ngàng. Vì sao? Xin cứ đọc rồi ngẫm nghĩ. Thiên hạ hay nói hoặc thường nghe về
nhồi sọ, tẩy não và đây là một trong những dịp để tự kiểm tra xem chính mình có
phải là nạn nhân hay không.
Suy tư: Khi ta đọc hay nghe điều gì đó, cần kiểm tra nhiều
người khác nhau, đối chiếu với các học giả, và cần biết Tác giả có hệ tư tưởng nào và mục đích gì
khi viết bài, để có sự phán đoán đúng đắn về nội dung ta đọc.
ALEXANDRE DE RHODES VÀ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VỀ LỊCH SỬ CẬN ĐẠI CỦA NỀN SỬ
HỌC VIỆT NAM
Gần đây, thành phố Đà
Nẵng muốn lấy tên Alexandre de Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức,
trong đó có nhiều người giảng dạy lịch sử trong môi trường đại học, viết thư
phản đối, cho rằng Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực
dân, là kẻ có tội với Việt Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút
lại ý định.
Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa
theo những niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và
hình ảnh “Tây phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.
Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những
tưởng tượng về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục
và chính trị đương đại.
Tưởng tượng về Alexandre de Rhodes
Năm 1971, Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam,
trong quyển “Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304, trích dẫn lời Alexandre de
Rhodes thể hiện một âm mưu có tính thực dân của mình:
“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm
được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài
nguyên phong phú”
Uỷ ban này chú thích rằng câu trích này được
trích từ sách “Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de
l’Orient” (Những cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc
khác ở phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr. 109-110.
Tuy vậy, người ta không thể tìm thấy câu nói ấy
trong tài liệu nói trên.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam là một định chế
nghiên cứu cấp quốc gia. Vị thế của nó bảo đảm cho uy tín học thuật của nó.
Thành ra từ đó, người ta cứ trích dẫn và lan truyền niềm tin lệch lạc như vậy
về Alexandre de Rhodes mà không cần kiểm tra lại. Từ lâu, những nhà nghiên cứu
như Vương Đình Chữ (1996), Nguyễn Đình Đầu (2006) đã chỉ ra lỗi trích dẫn này
của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng niềm tin ấy vẫn chưa mất. Lá thư
phản đối đặt tên đường của nhóm “trí thức” nói trên là một ví dụ.
Cũng trong sách này, Alexandre de Rhodes nói
đến việc xin nước Pháp cung cấp nhiều “soldats” để “chinh phục toàn cõi phương
Đông, đem về quy phục Chúa Jesus”. Cao Huy Thuần coi từ “soldats” là “binh
lính” quân sự, từ đó kết tội Alexandre de Rhodes mở đường cho thực dân xâm lược
Việt Nam, dù nhà truyền giáo ấy chết trước cuộc xâm lược ấy đến hai trăm năm,
còn Nguyễn Khắc Xuyên coi “soldats” không phải là “binh lính” theo nghĩa đen mà
chỉ “chiến binh Phúc âm”, tức giáo sỹ truyền đạo. Số người hiểu theo cách hiểu
của Cao Huy Thuần đông hơn hẳn cách hiểu của Nguyễn Khắc Xuyên, các cuộc tranh
luận, đúng hơn là cãi vã, về nghĩa của từ “soldats” hầu như không đặt từ này trong
toàn bộ văn bản của “Hành trình và truyền giáo” để xem tinh thần thực sự của
khái niệm cũng như của sách này là gì, có liên quan đến việc đánh chiếm thuộc
địa hay không.
Trí tưởng tượng nói trên về Alexandre de Rhodes
sở dĩ khó có thể nhạt phai vì nó nằm trong một tưởng tượng khác, lớn hơn, về
lịch sử cận đại. Tưởng tượng về lịch sử cận đại này cũng do Uỷ Ban khoa học xã
hội Việt Nam, từ tiền thân của nó là Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, xây dựng nên từ
giữa thập niên 1950, sau khi Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt
Nam) lấy được miền Bắc.
Tưởng tượng về thế kỷ 19
Tôi có làm “phỏng vấn” nhỏ một số bậc thức giả,
bao gồm cả những người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, một câu hỏi duy nhất:
Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc đối với Việt Nam là
cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung
Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc
xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân
xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang
Trung.
Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc
xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy
đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của
Trung Quốc là… thực dân Pháp.
Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở
Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược
trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó
không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.
Câu chuyện bị lãng quên: Nước Đại Nam trước hai
“gọng kìm lịch sử” Pháp – Mãn Thanh
Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu
cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của
chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo
giác mình là trung tâm của thế giới.
Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc.
Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, nhằm bảo vệ mô
hình thiên triều – chư hầu ngàn năm, còn Pháp quyết lấy nốt phần còn lại. Hai
bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác
liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh,
Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.
Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực
đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu
vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược
thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ
diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.
Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục
tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn
Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.
Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh
đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.
Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước
Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn
giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều – chư hầu, thì đến khi mất chư hầu
Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều – chư hầu của họ bị
đánh tận gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên
triều – chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết
định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục
mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó.
Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều –
chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung
chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp – Thanh ảnh
hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi Sách giáo
khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học
sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn
Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.
Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu
Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp
trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp – Thanh 1885 thì mở ra trang sử
mới của Việt Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp – Thanh mà lại
không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai
nước Pháp – Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học
một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên
Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.
Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc,
bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số
tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh
đánh giúp. Khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với
Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh
Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.
Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam
dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn
70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây
dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính
của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc
chiến: Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của
ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung.
Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài
Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý
thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn
huân chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh
Phúc.
Lịch sử của sự phân đôi phải / trái
Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc
chiến Pháp Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô
hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng
giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền
bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây”
và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật
lịch sử sao cho ăn khớp với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc
bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà
chỉ chống người theo đạo Thiên chúa giáo để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ
có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.
Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia
của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của
giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối
đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về
Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam
là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất
với lịch sử Đảng.
Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến
nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.
Phục hồi ký ức?
Cuộc chiến Pháp – Thanh và sự thất bại của Việt
Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt
Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo
khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách đã
bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức
về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ
phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã
khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng
kìm Pháp – Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương
Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con
đường “Tây phương hoá” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá
chữ Hán”.
Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu
thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực
lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như
lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một
cách căn bản.
Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất
bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng
tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn
sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính
dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu
đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu
ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến
bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm
chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể
chuyện lịch sử duy nhất.
Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta
đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng
ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta
thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên,
những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù
của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.
Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu
lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp – Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế
giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.
Khôi
Nguyễn, Đại học Oregon
(Nguồn:https://usvietnam.uoregon.edu/vi/2019/11/27/alexandre-de-rhodes-va-su-tuong-tuong-ve-lich-su-can-dai-cua-nen-su-hoc-viet-nam)