Giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả
việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh
sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và
các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người. Giáo dục người nam và người nữ về
giá trị của tính dục phải là một chiều kích cơ bản trong cuộc sống cá nhân và
xã hội. Như bất cứ một giá trị nào khác, giá trị tương giao của tính dục không tự nhiên mà có nhưng phải được
giáo dục trong một khung cảnh luân lý đạo đức nhất định.
Tông huấn Gia Đình xác định : “Tính dục là
một sự phong phú của toàn thể ngôi vị - thể xác, tình cảm, linh hồn – và biểu
lộ ý nghĩa thâm sâu của nó bằng cách đưa ngôi vị ấy đến chỗ tự hiến mình trong
tình yêu. Là quyền lợi và bổn phận căn bản của cha mẹ, việc giáo dục tính dục
phải luôn luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn chu đáo của cha mẹ, tại gia
đình cũng như ở các trung tâm giáo dục được cha mẹ chọn lựa và kiểm soát…Trong
bối cảnh ấy, không thể nào chối bỏ việc giáo dục đức khiết tịnh, là nhân đức
làm phát triển sự trưởng thành đích thực của ngôi vị, làm cho ngôi vị có khả
năng kính trọng và nâng cao ý nghĩa hôn nhân của thân xác” (FC 37).
“Tùy từng lứa tuổi, con trẻ cần được cung cấp một
nền giáo dục tích cực và khôn ngoan về tính dục”. Việc giáo dục tính dục
trong gia đình phải đóng vai trò chủ đạo, nơi giáo xứ và nhà trường có vai trò
hỗ trợ. Dù trong môi trường giáo dục nào, cha mẹ và các nhà giáo dục phải chủ
động; đừng để con em tự tìm hiểu qua những thông tin sai lệch và nguy hiểm.
I. GIÁO DỤC VỀ ĐỨC KHIẾT TỊNH
Con người có khả năng để thực hiện một tình yêu
cao hơn, được mời gọi bước vào tình bạn chân tình và biết sẵn sàng hy sinh.
Tính dục được ví như một dòng thác mạnh mẽ. Nếu dòng thác đó có được một định
hướng đúng đắn, nó sẽ làm phát sinh nguồn năng lượng cho cuộc sống; ngược lại,
nó bị lãng phí và thậm chí chỉ đem lại băng hoại: "Tính dục phải
được tình yêu định hướng, giáo dục và bổ túc, vì chỉ có tình yêu mới giúp cho
tính dục mang tính nhân bản" (TD 11). Như vậy, mục đích chính của giới
tính là tình yêu. Giáo dục giới tính rõ ràng và tế nhị chính là giúp cho con
người đạt được mục đích đó. Chỉ khi đạt được mục đích đó, con người mới có thể
đáp ứng lời mời gọi nên thánh.
Người ta không thể lấy dầu để chữa lửa. Cũng
vậy : " Để có thể sống vui và tránh gây bạo động
nhau, con người không thể cậy dựa vào một thứ điều hoà tính dục cách giả tạo là
lấy tính dục điều hoà tính dục, thật vậy, để sử dụng tính dục cho có giá trị
nhân bản, luôn luôn cần nhớ tới sự điều hoà của khoa đạo đức". Quan trọng cách riêng là mọi người
nên đánh giá cao nhân đức khiết tịnh, vẻ đẹp và sức mạnh hấp dẫn của nhân đức
này. Nhân đức này làm gia tăng phẩm giá con người và làm cho con người có khả
năng yêu mến thật sự, vô vị lợi, không ích kỷ và lòng tôn trọng người khác.
Con người được mời gọi để sống yêu thương trong
toàn thể tính thống nhất của nó (FC 11). Vì vậy, "Tính dục là nơi
biểu lộ sự tùy thuộc của con người vào thế giới vật chất và sinh học ; nó
trở thành cá vị và thật sự nhân bản khi gắn với tương quan giữa người với
người, trong việc hiến thân cho nhau trọn vẹn và vĩnh viễn giữa người nam và
người nữ" (SGL 2337).
Chính sự trao ban vô vị lợi trong tình yêu đòi hỏi
người trao ban phải coi trọng đức khiết tịnh, biết tự chủ trước những xung lực
bản năng tự nhiên. Nhân đức khiết tịnh nhắm đạt đến các mục tiêu cao hơn và
tích cực hơn. Đó là một nhân đức liên quan đến toàn thể nhân cách, cả về nội
tâm và hành vi bên ngoài. Đức khiết tịnh là nhân đức dành cho
mọi bậc sống, từ bậc phu phụ, người góa bụa đến kẻ đồng trinh (SGL 2349). Vì
vậy, ngay trong gia đình, con cái phải được hun đúc đời sống khiết tịnh qua bầu
khí yêu thương, đạo đức và quý trọng sự sống do Thiên Chúa ban tặng. Làm sao để
con cái dần dà hiểu được giá trị của tính dục và đức khiết tịnh, khám phá ra ơn
gọi của mình, sống ơn gọi đó với sự sung mãn của ơn Chúa Thánh Thần.
Đây là các phương thế để sống đời khiết tịnh:
"Kỷ luật của giác quan và tâm trí, tỉnh thức và thận trọng tránh dịp tội,
tuân giữ đức khiêm tốn giản dị, điều độ trong giải trí, nghề nghiệp lành mạnh,
chuyên cần cầu nguyện, và thường xuyên đón nhận bí tích Hòa Giải và Thánh Thể.
Người trẻ một cách đặc biệt nên nhiệt tình thúc đẩy sự dâng hiến cho Mẹ Thiên
Chúa Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, và noi gương đời sống của các Thánh, của cả
những tín hữu khác, cách riêng những người trẻ, những ai thực hành nhân đức
khiết tịnh”.
II. VÀI KHÁI NIỆM LUÂN LÝ CHO VIỆC GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH
Trở nên hạnh phúc hơn và trở nên người hơn chính
là mục tiêu của luân lý. Nhưng luân lý Kitô giáo xác tín rằng hành trình đi tìm
hạnh phúc sẽ được thuận lợi hơn nhờ nhìn nhận Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức
Giêsu Kitô : "Bất cứ ai theo Đức Kitô cũng sẽ trở nên người
hơn”(MV 41). Những xác tín của đức tin Kitô giáo liên quan đến tính dục xác
định rằng : tính dục là một chiều kích cơ bản trong cuộc sống cá nhân và
xã hội, là một thực tại mở ra chứ không chỉ khép kín trong gia đình, là phương
tiện để vợ chồng sống yêu thương, hoan lạc và đón nhận con cái.
1. Giới tính
Giới tính là nam hay là nữ. Có giới tính nghĩa là
có một thân xác với những ước muốn vây quanh. Giới tính là con đường để con
người đến gần kẻ khác và tự bộc lộ mình ra cho kẻ khác và như thể mục đích
chính của nó là tình yêu. Thế nhưng : “Nhận ra mình có
giới tính là một cách rõ nhất để phủ nhận ước mơ muốn được toàn năng”. Chính sự khác biệt giới tính là
nhân tố thúc đẩy người nam và người nữ thu hút nhau. Cũng như tính dục, “Giới
tính không phải là một vấn đề mà người ta có thể khảo sát được, nhưng là một
mầu nhiệm cuốn hút lấy người nam và người nữ trong gốc rễ sâu xa của họ”. Giới tính ngầm chứa bản năng tính
dục và nhân tố không thể thiếu trong tương giao tính dục.
2. Tính dục
Tính dục của con người không chỉ là sinh dục.
Không hề có bản năng tính dục mang tính toàn bộ, thuần túy sinh lý. Nó là chiều
kích nam giới hay nữ giới mà toàn thể con người cá thể đã được quy định ngay từ
giây phút thụ thai. Tính dục của một người là một tổ chức tương đối ổn định gồm
các xung lực khác nhau nhắm tới những đối tượng cục bộ của thân thể. Tình trạng
tính dục bình thường nào cũng là kết quả của một mớ ham muốn rất phức tạp, mà
nếu tách riêng từng ham muốn một, ta sẽ thấy nó thật bất bình thường. Mối tương
quan của con người với thân xác mình là một tương quan vừa sâu kín vừa phức
tạp. Người ta không có nam tính hay nữ tính mà nó là nam tính hay nữ tính của
họ. Xavier Thévenot nhận xét : “Tính
dục là một chiều kích thiết yếu của con ngươi”,
tuy nhiên, “Tính dục không bao giờ là một vấn đề mà ta có thể giải quyết thấu
đáo, nhưng đó chính là một mầu nhiệm lôi kéo chúng ta vào cuộc”.
3. Khiết tịnh
Khiết tịnh không phải chỉ là cầm giữ nhưng xung
lực tính dục của mình mà là đảm nhận tính dục của mình một cách trưởng thành,
làm cho cá nhân trở nên tự do nhiều hơn, làm cho con người có khả năng để yêu
thương nhiều hơn. Muốn như vậy, con người phải biết từ khước những gì làm cho
con người ít là người hơn. Như vậy, khiết tịnh là một công việc phải làm để
mình là mình hơn chứ không phải là một tình trạng phải giữ. Tình trạng
« trinh khiết » không bao giờ là kết quả tự phát hay có được một lần
cho tất cả. Muốn yêu thương cho hợp với tinh thần của Đức Kitô, đòi hỏi ai cũng
phải có một sự khổ chế nhất định nào đó trong những tình cảm và những thèm muốn
tính dục.
4. Điều hòa sinh sản
Đó là một việc làm liên lụy đến nhân cách con
người một cách rất sâu xa, một việc hết sức phức tạp về mặt tâm lý. Một việc
làm không chỉ âm thầm trong đời sống cá nhân mà bị lôi kéo vào chiều kích xã
hội khi việc thực hành mang tính phổ biến. Nó đang làm cho xáo trộn nhiều quan
niệm có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống cá nhân và xã hội. Chẳng có phương
pháp điều hòa sinh sản nào là hoàn hảo về mặt tâm sinh lý. Vợ chồng thực hành
điều hòa sinh sản phải có động cơ phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng, trao
đổi bàn bạc với nhau về phương pháp nào phù hợp với luân lý và Huấn quyền của
Hội thánh.
5. Đồng tính luyến ái
Đồng tính luyến ái là khuynh hướng tính dục chi
phối cách sống của một con người nhưng không chỉ toàn bộ nhân cách của một con
người. Giáo Hội mời gọi vì đức ái phải tiếp nhận người đồng tính luyến ái với
lòng thông cảm và mời gọi người đồng tính luyến ái cũng phải sống khiết tịnh.
Người đồng tính luyến ái khó tiết dục hơn người dị tính luyến ái nhưng không
phải vì thế mà họ có quyền để sống buông thả.
6. Vấn đề đổi giới tính
Các nguyên nhân giáo dục là một trong những nguyên
do chủ yếu dẫn đến việc chuyển đổi giới tính. Người ta trở thành kẻ thích đổi
giới tính là vì hồi còn nhỏ đã có những ước muốn với mẹ mình nhưng không được
đảm nhận một cách tốt đẹp mà mình không biết. Người thay đổi giới tính làm rối
loạn cuộc sống của mình cách sâu xa, vì là một sự thay đổi giả tạo nên đương sự
luôn cảm thấy bực dọc. Con người chỉ là kẻ thừa hưởng sự sống chứ không phải là
chủ nhân ông qua phẫu thuật và hormone mà có thể thay đổi cả hữu thể của mình.
Người thay đổi giới tính nên nhớ : “Phẫu thuật thay đổi bộ phận
tính dục không làm thay đổi giới tính”. Người phẫu thuật sinh dục không thể
kết hôn thành sự, không thể là ứng viên cho chức thánh hay dòng tu.
7. Thử nghiệm "tình yêu" qua việc sống
chung, sống thử, quan hệ trước và ngoài hôn nhân
Tất cả đều cho thấy triệu chứng của tình trạng sợ
dấn thân và mâu thuẫn nội tại. Cá nhân người trong cuộc chỉ sống theo những gì
mà người kia đang chờ đợi mình hơn là tìm biết những khát vọng và biết chính
mình. Khoái cảm ở đây không xua tan nỗi sợ hãi. Tình yêu đòi hỏi cả hai phải
nên một thân xác, thế nhưng ở đây thì không. Càng dấn sâu, người ta càng khó
tha thứ cho chính mình và cho người khác. Cuộc sống của họ đang bị đặt trên sự
nghi ngờ tha nhân và bất tín với bản thân, vì thế trong hiện tại hay tương lai
họ khó có thể xây dựng một quan hệ nhân bản tròn đầy. Vì lẽ đó, sự đổ vỡ hay
việc tẩy chay sự sống (chống thụ thai, phá thai…) là ngấm ngầm hay tỏ lộ. Trong
hoàn cảnh đó thật khó mà tiếp nhận con cái là hoa trái của tình yêu. Làm sao có
thể xây dựng tình người khi mà người ta chưa thể xác định được vị trí nhân vị
của mình.
8. Xung lực tính dục và tính gây hấn
Theo Freud, toàn bộ thân xác chúng ta đều bị chi
phối bởi những xung lực muốn được thoả mãn (libido).Theo Reich, mọi lo lắng và khó khăn
bắt nguồn từ các xung lực tình dục không được thoả mãn.Nhưng các ông chưa biết rằng những
xung lực này có tính cục bộ là những bộ phận của thân thể, hay những gì mang
nghĩa biểu tượng tương đương. Các Kitô hữu cần biết rằng dù có được tổ chức một
cách gọi là bình thường đi nữa các xung lực tính dục vẫn tiếp tục gây áp lực
trên ta. Quả vậy, xung lực tính dục và xung lực gây hấn ban đầu không hề hướng
tới điều tốt một cách tự nhiên. Nguyên tắc duy nhất mà hoạt động của bộ máy tâm
lý tuân theo lúc ban đầu chính là đi tìm khoái lạc, không hề đặt vấn đề tốt hay
xấu mà chỉ bận tâm làm sao giảm bớt sự căng thẳng nơi mình bằng cách thoả mãn
các xung lực tính dục và gây hấn. Vì vậy, tính dục luôn luôn có vấn đề với bạo
lực. Nói cách khác, các xung lực tính dục luôn luôn hoà lẫn với các xung lực
gây hấn. Bất cứ quan hệ xác thịt và quan hệ nào của con người cũng huy động và
tiềm tàng các chiều kích gây hấn tính gây hấn khá quan trọng.
9. Sự hữu hạn của tính dục
Sự khác biệt giới tính cho người nam và người nữ
cảm giác bất toàn nơi mình. Nó thúc đẩy con người tìm kiếm một ai đó bù lấp vào
sự thiếu thốn nơi hữu thể của mình, giúp bổ túc và làm phong phú cho nhau. Cho
dù tính dục có là một thứ ngôn ngữ đặc biệt của tình yêu hay là một chiều kích
thiết yếu của con người thì đó cũng chỉ là một thứ ngôn ngữ giới hạn mang tính
hai mặt. Tính dục của con người thật mỏng manh như chính thân phận con người.
Người ta có thể tuyệt đối hóa khoái lạc, tìm nó chỉ vì nó và thất vọng cũng vì
nó. Có thể nói, tính dục của con người là một tổ chức hay một trạng thái luôn
còn đó những dang dở đang được hình thành (J.Pohier), thoái hóa hay tiến bộ. Khi tính dục
không nhằm mục tiêu là tình yêu, nó sẽ hủy hoại nhân cách của con người. Vì
vậy, luân lý Kitô giáo đặt tình yêu làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá đời
sống tính dục.
III. MỘT VÀI LƯU Ý TRONG CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
Tài liệu Tính Dục Con Người : Sự Thật
và Ý Nghĩa ; Những định hướng giáo dục trong gia đình do Hội Đồng
Giáo Hoàng về Gia Đình xuất bản phải là thủ bản tham khảo của các bậc cha mẹ. Ở đây chúng ta trình bày một số lưu
ý.
1. Từ 5 tuổi đến tuổi dậy thì
ha mẹ đừng làm xáo trộn thời gian yên lặng và ngây
thơ này của các em bằng những hướng dẫn tính dục. Cha mẹ chỉ có thể gián tiếp
giáo dục tình yêu thanh khiết cho các em. Trong bầu khí thanh thản của gia
đình, cha mẹ dạy cho con cái biết sự khác biệt giới tính là điều tự
nhiên ; sự khác biệt đó nhằm thích ứng với những trách nhiệm khác nhau
trong gia đình. Cha mẹ hãy cố gắng giúp các bé gái nhận ra giá trị nữ tính đặc
thù của mình qua mẫu gương làm mẹ của Đức Trinh Nữ Maria ; hãy giúp các bé
trai nhận biết nam tính của mình như một quà tặng của Thiên Chúa, nam tính bình
đẳng với nữ tính và đừng quá hung hăng bộc lộ nam tính qua những hành động anh
hùng. Hoạt động trí thức sẽ giúp các em đạt được sức mạnh và khả năng kiểm
soát.
2. Tuổi dậy thì
"Rõ ràng, việc giáo dục giới tính cho thanh
thiếu niên ở tuổi dậy thì là một nhu cầu thiết yếu của cả gia đình và xã hội,
để các cháu có cuộc sống lành mạnh, học tập tốt hơn và một tương lai lành
mạnh". Đây là giai đoạn cha mẹ được mời
gọi để chú tâm giáo dục về giá trị đức khiết tịnh cho con cái theo tinh thần
Kitô giáo, cách thức để hướng dẫn về tính dục cũng phải liên hệ đến giáo dục
đức khiết tịnh. Cha mẹ cần phải hướng dẫn về đời sống, hành vi tính dục, cơ
quan sinh dục và vệ sinh ; cần giải thích trên bình diện giá trị cũng như
trên bình diện thực tế, liên kết với việc sinh sản, hôn nhân và gia đình. Trong
tình thân hữu tin tưởng, người mẹ giải thích cho con gái, và người cha cho con
trai cách tỉ mỉ về tính dục. Cha mẹ phải theo sát những phát triển sinh lý của
con gái để giúp các em vui vẻ đón nhận việc triển nở nữ tính về mặt thể xác,
tâm hồn và tinh thần. Cũng phải nói với các em gái về chu kỳ kinh nguyệt và ý
nghĩa của hiện tượng này trong giới hạn cần thiết. Phải nói với các em trai về
những giai đoạn phát triển thể lý và sinh lý của cơ quan sinh dục với giọng
điệu trang nghiêm, tích cực và dè dặt trong phạm vi hôn nhân, gia đình và quyền
làm cha. Cha mẹ hãy chỉ dẫn cách tỉ mỉ về những đặc tính thể lý và tâm lý của
giới khác. Để giúp thanh niên, thiếu nữ chống não trạng hưởng thụ rơi vào thói
tục "chống thụ thai", cha mẹ cần chỉ dạy để họ nhận ra điều cao đẹp
của thiên chức làm mẹ và thực tế kỳ diệu của việc sinh sản cũng như ý nghĩa sâu
xa của sự khiết trinh, sự nết na trong cách ăn mặc. Trong thời phát triển tâm
lý và tình cảm của tuổi dạy thì, thiếu niên dễ rơi vào tưởng tượng tình dục và
đi tìm kinh nghiệm tình dục. Cha mẹ phải nhắc nhở cho con cái tính dục là quà
tặng của Thiên Chúa giúp con người tham gia vào sức sáng tạo của Ngài, cách
riêng trong hành động truyền sinh và con cái là kết quả và là dấu chỉ của tình
yêu trao hiến trọn vẹn giữa vợ chồng (FC 28). Nhờ cách này, các thiếu niên học
hỏi để biết tôn trọng phụ nữ. Trên bình diện đạo đức, cần trình bày các giới
răn của Thiên Chúa như là con đường để đạt tới sự sống và giáo dục lương tâm
ngay thẳng. Giúp các em vượt thoát con người ích kỷ của mình để hướng về Thiên
Chúa và tha nhân.
3. Tuổi thiếu niên
Đây là thời gian hoạch định cho bản thân và là
thời gian khám phá về ơn gọi cá nhân mình, sống đời hôn nhân gia đình hay độc
thân vì Nước Trời. Vì thế cha mẹ cùng với những nhà giáo dục khác tích cực giúp
con cái sống trọn vẹn ơn gọi từ nơi Thiên Chúa, ơn gọi nên thánh trong bậc sống
của mình. Thiên Chúa mời gọi mọi người nên thánh và có chương trình riêng tư
cho từng người : một ơn gọi cá nhân mà mỗi người phải nhận ra, đón nhận và
phát huy. Không thể có giáo dục nếu không có các gương mẫu. Bởi vậy, chính cha
mẹ phải là mẫu gương sống động và bền bỉ về sự trung thành với Thiên Chúa và
với nhau trong khế ước hôn nhân. Vượt lên trên quan niệm hưởng thụ, vẻ đẹp và
sức mạnh của đức khiết tịnh chính là kim chỉ nam cho những vấn đề liên quan đến
tính dục, sự bất khả phân ly của hôn nhân, liên hệ giữa tình yêu và sinh sản,
quan hệ trước hôn nhân, phá thai, ngừa thai, thủ dâm, đồng tính luyến ái…Một sự
hưởng thụ tính dục sái trật tự có nguy cơ tác hại dần dần khả năng yêu thương
của con người, biến con người thành đối tượng cho sự thỏa mãn ích kỷ, khinh rẻ
sự sống, hạ giá đời sống con người. Trong giai đoạn này, cha mẹ cần lưu
tâm đến bạn bè của con cái ; phải dứt khoát khi cần thiết.
4. Hướng về tuổi trưởng thành
Dù con cái đã lớn khôn và có một khoảng không gian
tự do cần thiết, cha mẹ vẫn phải luôn là điểm tựa nhờ các lời khuyên bảo thân
tình và gương sống về đức tin, đức ái, lòng chung thủy…Cả con trai và con gái
phải được khuyên nhủ tuân giữ đức khiết trinh như nhau. Để gìn giữ sự khiết
tịnh cho nhau, người nam và người nữ cần biết những cơ chế lôi cuốn nhau đến
quan hệ tình dục mà né tránh, nết na trong cách ăn mặc, tránh nơi vắng vẻ, bóng
đêm đồng lõa với tội lỗi, "rượu và sự thánh thiện không đi đôi với
nhau"(Don Bosco)…
IV. KẾT LUẬN
Như bất cứ một việc giáo dục nào khác, giáo dục
giới tính luôn luôn mời gọi, cha mẹ, thầy cô và các anh chị giáo lý viên tìm
một con đường phù hợp để chính mình và con em đến gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ
nhau. Để làm công việc giáo dục giới tính cho con em một cách trong sáng, thích
hợp và hiệu quả, đòi hỏi một sự tinh tế và bén nhạy trong cách tiếp cận vấn đề
sao cho khi trình bày phù hợp với tâm lý lứa tuổi, mang tính tiệm tiến và tính
toàn diện Không quá phóng khoáng với điều cấm
kỵ cũng chẳng nên cấm chỉ những điều hợp lẽ. Giáo dục không chỉ là cung cấp
thông tin mà là xử lý thông tin đó dưới cái nhìn phù hợp với tinh thần của Kitô
giáo. Tính dục không phải là một thứ tri thức khoa học có thể lĩnh hội qua
thông tin, nó là một “bí ẩn”, một “mầu nhiệm” mà toàn bộ con người bị lôi kéo
vào, để khám phá, để sống, để cảm nghiệm sự hữu hạn giữa sự sống và cái chết
trong kiếp người. Dưới cái nhìn Kitô giáo, tính dục vừa là một công trình của
sáng tạo, vừa tham dự vào việc sáng tạo, vừa được ơn cứu độ của Đức Kitô kiện
toàn. Một quan niệm bẩn thỉu về tính dục (điều cấm kỵ) và một cái nhìn tôn sùng
tính dục (thần tượng) đều không phù hợp với giáo lý Công Giáo.
Lm.
Giuse Đinh Quang Vinh tổng hợp